094.278.3333 - 0888.959.000

187 Bà Triệu - quận Hai Bà Trưng - Hà Nội

GIÁO TRÌNH PHẠN VĂN - TS ĐỖ QUỐC BẢO GIÁO TRÌNH PHẠN VĂN - TS ĐỖ QUỐC BẢO Cổ Ấn Độ Học Tùng Thư
Biên Soạn: Thomas Lehmann
Dịch: Đỗ Quốc Bảo
NXB: Hồng Đức & Hương Tích
Số Trang: 390 Trang
Hình Thức: Bìa Mềm
Khổ Sách: 14,8x21cm
Năm Xuất Bản: 2020
Độ Dày: 1,7cm
GTPV LỊCH SỬ - TỪ ĐIỂN 110.000 đ Số lượng: 5 Quyển
  • GIÁO TRÌNH PHẠN VĂN - TS ĐỖ QUỐC BẢO

  •  1742 Lượt xem
  • Mã sản phẩm: GTPV
  • Giá bán: 110.000 đ

  • Cổ Ấn Độ Học Tùng Thư
    Biên Soạn: Thomas Lehmann
    Dịch: Đỗ Quốc Bảo
    NXB: Hồng Đức & Hương Tích
    Số Trang: 390 Trang
    Hình Thức: Bìa Mềm
    Khổ Sách: 14,8x21cm
    Năm Xuất Bản: 2020
    Độ Dày: 1,7cm


Số lượng
Lời Giới Thiệu Của Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ
Năm 1867, Minh Trị Thiên Hoàng lên ngôi, Nhật Bản bắt đầu kỷ nguyên mới hiện đại hoá. Ngay lúc bấy giờ, giới Tăng lữ cũng đã ý thức được tầm mức quan trọng công cuộc hiện đại hoá này, không chỉ thuộc phạm vi nhà nước thế tục, mà nhất định sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự tồn tại và phát triển của Phật giáo. Qua các nguồn thông tin từ những quan hệ Đông Tây trong cuộc hiện đại hoá này, họ đã biết đến những nghiên cứu của các học giả phương Tây về Đông phương học, trong đó đáng lưu ý là Ấn-độ, nơi phát xuất Phật giáo. Để không lạc hậu với thời đại, chùa Đông Bản nguyện (Higashi Hon- ganji), vị trí như là một Tổ đình của phái Chân tông Đại cốc (Shinshu Otani) thuộc Tịnh độ Tông Nhật Bản, năm 1876 đã gửi ngay học tăng du học Âu châu, học Sanskrit và triết học Ấn-độ. Du học tăng được gởi đi lúc bấy giờ là nhà Phạn ngữ học danh tiếng sau này, đó là Bác sỹ Nam Điều Văn Hùng (Nanjio Bunyu 1849-1927). Ông theo học tại Viện Đại học Oxford, Vương quốc Anh, dưới sự hướng dẫn của Friedrich Max Müller, nhà Đông phương học danh tiếng.


 
giáo trình phạn văn 1 min


Còn ở Việt Nam, cho đến năm 1998, thầy Lê Mạnh Thát sau khi được trả tự do, trở về trường Cao cấp Phật học Vạn Hạnh không bao lâu, đã đề nghị ngay chương trình học Sanskrit. Hoà thượng Minh Châu cố nhiên rất hoan hỷ, nhưng các thầy giữ vị trí quan trọng của trường lập tức bác bỏ, cho rằng không cần thiết. Trong thực tế, chương trình học Sanskrit đã được bắt đầu từ niên khoá đầu tiên, từ năm 1964, của Phân khoa Phật học và Triết học Đông phương, Viện Đại học Vạn Hạnh, Hoà thượng Viện trưởng Thích Minh Châu đã mời một giáo sư người Ấn giảng dạy. Tôi (Tuệ Sỹ) là một trong một số rất ít các vị dự khoá học này.

Sách giáo khoa chính là A Sanskrit manual for high schools, 2 vol., soạn bởi Robert Antoine, Linh mục truyền giáo thuộc Dòng Tên (Jesuit). Tài liệu cực hiếm. Ngay cả tập Ngữ pháp Whitney cũng khó tìm thấy. Một số sách Sanskrit do Hoà thượng Minh Châu từ Ấn-độ mang về phần lớn là sách tập đọc của trẻ em người Ấn. Sách đọc đơn giản, nhưng muốn hiểu phải bỏ công tra từ điển không nhỏ. Sau này, tôi nhờ thầy Thát gửi cho một vài quyển, đáng kể tập A Sanskrit Reader soạn bởi Charles Rockwell Lanman. Vì tài liệu để học quá ít, nên tôi bắt buộc phải học thuộc lòng các mẩu truyện trong Hitopadesa và phần đầu của Nalopäkhyāna, một hồi trong trường sử thi Mahabhārata. Nhưng rồi, thời gian sau, qua gần 15 năm lao lý, khi trở về, tôi quên hết những gì đã học.


 
giáo trình phạn văn 2 min


Ngay mẫu tự Devanāgari tôi cũng tịt mù, không đọc ra, phải cố công học lại từ đầu Khoảng năm 2000, tôi gặp Đỗ Quốc Bảo tại Già-lam. Biết anh đang theo học chuyên môn Sanskrit với các Giáo sư Sanskrit hàng đầu hiện tại ở Đức, tối đa nghị anh mở lớp Sanskrit ngắn hạn, đồng thời soạn một quyển Giáo khoa Phạn ngữ thích hợp cho trình độ tăng ni sinh Việt nam. Khoá học chỉ diễn ra một thời gian cực ngắn với số học viên khá ít. Không chỉ riêng anh thất vọng, mà tôi cũng thất vọng không kém. Sau này, khi giảng Thành duy thức và Câu-xá cho một số thầy cô, tôi đã cố gắng nêu những điểm khó trong bản Hán mà nếu không biết đến ngữ pháp Sanskri thì không thể hiểu được, với mục đích khơi dậy hứng thú học Phạn ngữ. Cụ thể như trong bài tựa Thành duy thức, Khuy Cơ sở giải rất rõ, câu tụng "đảnh lễ Duy thức tánh” thuộc biến cách bảy (sở y/ư cách, Thuật ký; Hán thường gọi là sở y cách), và câu tụng “Mãn Phần thành tịnh giả” thuộc biến cách bốn (sở dữ cách, sàng lo, Hán gọi là vị cách).

Nếu không rõ ý nghĩa các biến cách danh từ này thì sẽ không biết “ai đảnh lễ ai ở đâu”. Thành duy thức không có nguyên bản Sanskrit, do vậy, các điểm ngữ pháp Sanskrit trong đó mà chắc chắn là Ngài Huyền Trang đã chỉ dẫn tường tận cho các đệ tử, đại phần chỉ dựa theo phân tích của Khuy Cơ. Cho đến khi giảng Câu-xá, do có nguyên bản Sanskrit, và các bản dịch đối chiếu từ Hán, Tạng, Nhật, Pháp và Anh, tuy vậy, dễ thấy các điểm ngữ pháp trong đó vô cùng phức tạp mà các bản Hán không thể chuyển dịch. Qua số giải của Yako- mitra, nhiều quy tắc từ Pānini được dẫn và giải, cho thấy các bản Hán nhiều khi đã phải lược qua vì không có từ hoặc khái niệm tương đương. Ngay cả các tranh luận khá phức tạp giữa các bộ phái Phật giáo tại Ấn-độ, như được thấy trong Đại Tì-bà-sa, phần lớn là phân tích đoạn Kinh Phật thuyết trên cơ sở ngữ pháp và thanh luật. Không thông ngữ pháp và thanh luật, tất không thể hiểu hết ý nghĩa của các tranh luận này. Kiểu “chỉ cần tỏ ngộ chân tâm” dễ thành sáo ngữ hoang đường cho những vị “cuồng thiền”.


 
giáo trình phạn văn 3


Các điểm ngữ pháp, bao gồm các quy tắc thanh luật, quy tắc cấu tạo từ đơn, hợp từ, phức pháp từ, và các quy tắc cú pháp, đều phản ánh các tiêu điểm tâm lý học và triết học, mà mỗi bộ phái y cứ trên tông nghĩa của phái mình để giải thích. Từ đó phát sinh các kiến giải bất đồng, và diễn ra tranh luận. Điều này được thấy rõ khi Thế Thân tranh luận với các nhà văn phạm học (Vaiyākarana) về cấu trúc của phức hợp từ pratitya-samut-pāda. Các vị này cho rằng phức hợp từ được cấu thành sai quy tắc ngữ pháp. Hơn một trăm năm sau, Candrakirti, trong Pra-sannapada, trên cơ sở tánh không luận, đã phê bình các giải thích về từ này của các bộ phái trước đó.

Sanskrit thuộc loại ngôn ngữ đa âm tiết; mỗi từ được hợp thành bởi nhiều yếu tố. Các từ chuyển tải ý nghĩa của mỗi yếu tố, mặc dù được chỉ định như là từ chuyên biệt ngữ pháp, thảy đều mang nội hàm triết học, phản ảnh tư duy Ấn-độ cổ đại. Lấy ví dụ, trong các từ được gọi là động từ, nó bao gồm phần chính mà ta gọi là ngữ căn hay gốc động từ, vốn dịch Việt của từ Anh verbal root, nguyên Phạn ngữ của nó là dhātu, Hán dịch là tự giới. Cùng với tiền tố prefix của nó, và hậu tố biến hoá của nó, termination, nguyên Phạn ngữ là pratyaya, Hán dịch là tự duyên. Từ dhatu mặc dù được dùng trong phạm trù ngữ pháp ở đây vẫn phản ánh tư duy triết học như trong các luận thư Abhidharma. Nội hàm của từ dhatu mang tính triết học trong bài tụng dưới đây dẫn từ Luận Nhiếp Đại thừa (Maha-yanasamgrahasästra) vẫn áp dụng cho từ dhātu như là động từ căn trong phạm trù ngữ pháp:

anädikāliko dhätuh sarvadharmasamāśrayah /
tasmin sati gatih sarvā nirvāṇādhigamo 'pi ca ||

Hiểu nội hàm của từ dhātu trong cả hai ngữ cảnh khác nhau này cho thấy mối quan hệ mật thiết trong tư duy triết học và tư duy ngôn ngữ học. Ý nghĩa này càng được thấy rõ tầm quan trọng khi trong nhiều kinh đức Phật truy nguyên gốc của một từ thông dụng từ dhātu của nó. Chẳng hạn, khi nói về bản chất tồn tại của thế gian – loka, đức Phật nói: lujyate prelujyate tasmal lokah, cho thấy từ loka có ngữ nguyên của nó là luj. Nirukti, ngữ nguyên học, là một trong bốn vô ngại giải (pratisamvid) mà một Đại Thanh văn cần nắm vững để thấu triệt Phật ngôn đồng thời tuyên thuyết cho đại chúng.


 
giáo trình phạn văn 4 min


Một ít thí dụ dẫn trên chỉ muốn cho thấy các từ chuyên biệt của ngữ pháp đều phản ảnh những tư duy triết học. Đây là điểm khó cho biên soạn Giáo trình cũng như Ngữ pháp Sanskrit bằng ngôn ngữ phương vực của mình. Các nhà Phạn học phương Tây khi biên soạn các sách ngữ pháp Sanskrit đã không thể tìm thấy những từ chuyên biệt ngữ pháp Sanskrit tương đương trong kho từ vựng ngữ pháp, mà chỉ mượn một số từ trong từ vựng ngữ pháp La-tinh xem là tương đương, chỉ về mặt hình thức và kỹ thuật. Dù vậy, số từ vựng được xem là tương đương này vẫn không đủ, so với kho từ vựng ngữ pháp Sanskrit phong phú.

Về phần tiếng Việt, hầu hết từ vựng ngữ pháp trong hiện tại phần lớn chỉ tìm thấy những từ thông dụng dịch từ các ngôn ngữ Anh hay Pháp, số lượng thật nghèo nàn. Trong nhiều thảo luận với Đỗ Quốc Bảo về vấn đề này, tôi biết anh đã dụng công quá nhiều để có thể giúp người học có một kiến thức cơ bản từ vựng ngữ học Sanskrit để sau đó khả dĩ đi sâu vào các văn bản Phật giáo, từ các Kinh Phật thuyết cho đến các luận thư Abhidharma. Làm được điều này, đòi hỏi soạn giả phải thông thạo tiếng Việt có vốn liếng từ Hán căn bản, và nhất là nắm vững ý nghĩa các từ chuyên biệt ngữ pháp trên cơ sở tư duy triết học. Cái gọi là “tiếng Việt thuần tuý”, từ chối tất cả có gốc Hán, hầu như chỉ là sáo rỗng.

Người Nhật cũng học Hán, chịu ảnh hưởng văn minh Hán tộc, nhưng qua lịch sử phát triển, đã thâu thái thành bản sắc cá biệt của mình. Khi tiếp xúc với văn minh phương Tây, họ thấy nhiều từ trong các lĩnh vực khoa học, kinh tế, tôn giáo trong các ngôn ngữ phương Tây khó tìm thấy tương đương trong kho từ vựng Hán đã được Nhật hoá. Họ đã tạo thêm những từ mới vay mượn các từ Hán cổ để dịch các từ như philosophy, hay economy/ economics ..., thành các từ Nhật bằng Hán tự gọi là kanji như triết học, kinh tế... Người Hoa hiện tại vẫn phải dùng các từ này, vốn không là những từ sáng tạo của Hán tộc, mà của người Nhật. Vậy thì, chúng ta dùng các từ Hán cổ để dịch những từ Sanskrit mà trong kho ngôn ngữ Việt hoặc thuần giống hoặc Việt hoá từ Hán trong chừng mực có thế gần với nội hàm của từ Sanskrit được hiểu trong phạm trù ngữ pháp mà cũng không làm mất đi tư duy triết học trong đó. Đây là điều mà tôi cảm nhận Đỗ Quốc Bảo đang cố gắng. Nhiều từ anh dùng trong các tập Giáo trình và Ngữ pháp Sanskrit có thể rất lạ tai với các học viên hay độc giả vốn chỉ quen với các từ ngữ pháp trong tiếng Anh hoặc Pháp.

Trong thực tế, một từ mới phát sinh trong các quan hệ xã hội, nếu nó phản ánh được trạng thái tồn tại cũng như mối quan hệ xã hội giữa người và người, nó sẽ sống và phát triển lâu dài. Nếu nó không phản ánh được như vậy, chỉ trong một thời sẽ bị quên lãng, hoặc biến mất. Cho nên, nhiều từ ngữ pháp trong tập ngữ pháp này cũng rất lạ tại đối với tôi, nhưng tôi vẫn sẵn sàng chấp nhận. Cho đến khi nếu tôi cảm thấy, hay tìm thấy từ nào khác hơn có thể thay thế, tôi sẽ đề nghị thay thế. Vậy tôi mong tập sách này sẽ giúp những vị có nhiều cảm hứng trong việc học Sanskrit không chỉ dừng lại ở cảm hứng đối với ngôn ngữ kỳ diệu Sanskrit, mà từ căn bản này đi sâu vào tư duy triết học trong Phật học, và có thể rộng hơn nữa, khuynh hướng tư duy triết học Ấn cổ đại.
Thị ngạn am, đầu xuân Canh Tý, 2020
Tuệ Sỹ


 
giáo trình phạn văn 5


Lời Nói Đầu Của Soạn Giả:
Quyển Giáo Trình Phạn Văn này nguyên là chương trình học tiếng Phạn kéo dài hai học kì của Đại học Heidelberg, CHLB Đức, mà tôi đã tham dự vào năm 2001-2. Tiến sĩ Thomas Lehmann, giảng viên thường trực của khoa Cổ Ấn-độ học đã soạn giáo trình này cho sinh viên năm thứ nhất, vừa bắt đầu khoá Phạn ngữ của bộ môn Cổ Ấn-độ học (Classical Indology). Tiếc là cho đến ngày nay, giáo trình của ông Lehmann chỉ được sao chép và đóng thành tập lưu hành nội bộ, chưa được in thành sách giáo khoa hẳn hoi. Tuy không học trực tiếp với ông Lehmann (vì ông đã chuyển sang bộ môn Hiện đại Ấn-độ học năm 2000 và từ đó trở thành chuyên gia dạy tiếng Tamil và Hindi) nhưng tôi rất tán thành phương pháp sư phạm trong giáo trình này so với những quyền dạy tiếng Phạn khác vì tiến trình từ dễ đến khó được thực hiện rất hợp lí. Thế nên, ngay trong thời gian học, tôi học đến bài nào thì dịch sang tiếng Việt bài ấy cũng như bổ sung và sắp xếp lại một số thông tin trong giáo trình cho thích hợp với nhu cầu học của sinh viên Việt Nam.

Dưới dạng cảo bản, Giáo Trình Phạn Văn tiếng Việt đã được lưu hành trong giới yêu thích tại Việt Nam từ năm 2004 và không ít người đã lấy nó làm tài liệu học tập cũng như giảng dạy. Giáo trình này bao gồm 40 bài học với phần bài tập đi kèm có tiến độ tương đối đều đặn. Từ bài 1 đến bài 7 thì các câu văn tiếng Phạn còn được ghi dưới cả hai dạng, Devanāgari và dạng phiên âm La-tinh. Kể từ bài 8 trở đi thì chỉ còn những câu văn chữ Devanāgari cho nên sinh viên phải nhanh chóng làm quen với chữ Devanāgari và các dạng liên tự để không bị sốc khi bước sang bài 8. Việc tối kị là không đọc thẳng chữ Devanāgari mà lại kí âm La-tinh trước khi đọc dịch, vì việc này rất tốn thời gian và làm giảm tốc học và hiểu bài. Việc kiểm tra ngữ pháp và từ vựng tuỳ theo người dạy và người học, nhưng sau khoảng 3 đến 4 bài có một bài kiểm tra là thích hợp. Sau một học kì thì có một bài kiểm tổng quát.

Về mặt giảng dạy cụ thể thì tại Đức, chương trình học bao gồm 3x2 tiết học (90min) với tốc độ 1 cho đến 1,5 bài mỗi tuần, bao gồm cả phần bài tập đi kèm. Khoảng 2/3 phần bài tập của mỗi bài được triển khai và giảng giải trên lớp. Theo kinh nghiệm dạy một nhóm sinh viên Việt Nam qua mạng thì mỗi tuần một lần 90 phút cho một bài là điều khả thi, và điểm quan trọng nhất trong buổi dạy là kiểm tra bài tập đã làm. Lớp học cũng không nên có nhiều sinh viên, với số lượng lí tưởng không trên 10. Điều tối trọng là tất cả sinh viên tham dự khoá học đều lần lượt đến phiên tự giảng giải bài tập và đặt câu hỏi. Giáo trình này tất yếu phải được dạy và học trong một năm và được tiếp nối không gián đoạn với khoá trung cấp.

Nguyên do ở đây rất đơn giản, là vì tiếng Phạn – nếu ta muốn học ngôn ngữ này đến đẳng cấp có khả năng tự dịch nguyên tác sang bất cứ một thứ tiếng nào khác - rất khó học và đồng thời rất dễ quên, cần được học trong một khoảng thời gian nhất định với sự chuyên chú cao nhất. Trong năm đầu, kho tiếng Phạn chiếm 40% thời gian học của tất cả các môn học tại đại học. Nếu kéo dài giáo trình thành hai hoặc ba năm thì sinh viên sẽ quên phần học ban đầu khi học đến phần cuối, và nhìn chung, theo tốc độ học bên châu Âu, sinh viên cũng không có thời gian nhiều như thế để học. Trường hợp học tuỳ hứng kiểu tài tử để so sánh thuật ngữ Phạn văn trong kinh văn Phật giáo với Hán hoặc Anh văn thì tôi không bàn đến vì tôi không xem việc học này là học tiếng Phạn với trọn vẹn ý nghĩa của việc học một ngôn ngữ đến nơi đến chốn.

Mặc dù một số người tại Việt Nam tự tin cho rằng có thể tự học tiếng Phạn một cách chung chung nhưng tôi lại không tán thành việc tự học như vậy. Qua kinh nghiệm bản thân, tôi chiêm nghiệm được rằng, nếu không được bậc thầy chuyên môn chỉnh sửa đúng lúc trong lúc kiểm tra bài tập, người tự học sẽ hiểu lầm nhiều điểm mà sau này rất khó sửa, còn chưa nhắc đến sự phân vân thiếu tự tin khi phải tự dịch một đoạn văn hoặc giảng giải một vấn đề ngôn ngữ nào đó trước mặt người khác. Ngoài ra, vì bản chất cực kì phức tạp của văn phạm, ngay cả người nếu tự học thành công và hiểu đúng tiếng Phạn cũng cần được sự xác nhận, một “ấn khả chứng minh” của bậc thầy chính quy để giải đáp được tất cả những nghi vấn mà ai học tiếng Phạn chân chính cũng có, thậm chí càng học nhiều thì nghi vấn nan giải càng tăng. Trong ý nghĩa này, tôi hi vọng Giáo Trình Phạn Văn dưới sự hướng dẫn của một giáo thụ sẽ là một công cụ thích hợp cho việc dạy và học, đáp ứng nhu cầu học tập của sinh viên Đại học bộ môn ngôn ngữ học và cũng là một viên đá nền tảng cho toà nhà Cổ Ấn-độ học hoặc Phật học Ấn-độ sẽ xuất hiện tại Việt Nam trong một ngày nào đó không xa.

Cuối cùng, tôi thành thật cảm ơn những vị thầy, đồng nghiệp, tăng ni, những người bạn và những người thân đã hỗ trợ để Giáo Trình Phạn Văn bản tiếng Việt được hoàn tất: Trước hết là Dr. phil. Thomas Lehmann, người đồng ý và hoan nghênh việc tôi biên soạn lại và dịch giáo trình sang Việt ngữ cũng như in ấn và công bố tại Việt Nam. Sau đó là Ôn Tuệ Sỹ, vị thầy đã luôn nhắc nhở, khuyến khích và hỗ trợ tôi trong các công trình nghiên cứu Phạn ngữ cũng như dịch và biên soạn tài liệu dạy học; cháu Nguyễn Trần Quý (MA), đã giúp nhập và đọc sửa phần văn bản Devanāgari; hai cô Thuần Chánh và Viên An đã giúp đọc rà lỗi bản dịch cũng như góp ý về cách trình bày; các học viên học khoá 1 căn bản năm 2018/19 với tôi, đã giúp sửa bản in, góp ý trình bày, và quan trọng nhất là cho tôi xác tín là có thể dạy tiếng Phạn thành công trên cơ sở tiếng Việt thuần tuý.
Trân trọng - Heidelberg, xuân 2020
Đỗ Quốc Bảo, PhD



 

Mục Lục:
Lời Giới Thiệu Của Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ
Lời Nói Đầu Của Soạn Giả
Ngữ Pháp
  • Bài Thứ Nhất
    1. Bảng Chữ Cái Tiếng Phạn Trong Phần Phiên Âm
    2. Hệ Thống Nguyên Âm
    3. Hệ Thống Phụ Âm
    4. Thứ Tự Bảng Chữ Cái Tiếng Phạn
  • Bài Thứ Hai
2.1 Hệ Thống Động Từ
2.2 Hệ Thống Danh Từ
2.3 Ngữ Căn & Ngữ Cán
2.4 Cấu Thành Ngữ Cán Hiện Tại
2.5 Hiện Tại Vị Tha Ngôn (Ngôi Xưng Thứ Ba)
2.6 Động Từ Tiếp Đầu Ngữ
2.7 Danh Từ Nam Tính Có Vĩ Âm – A (Chủ Cách/Trực Bổ Cách)
2.8 Danh Từ Trung Tính Với Vĩ Âm – A (Chủ Cách/Trực Bổ Cách)
2.9 Chức Năng Của Chủ Cách
2.10 Chức Năng Của Trực Bổ Cách
2.11 Quy Luật Cho Vĩ Phụ Âm – M
  • Bài Thứ Ba
3.1 Nhân Xưng Đại Từ
3.2 Nghi Vấn Đại Từ - (Chủ Cách/Trực Bổ Cách)
3.3 Sắp Đặt Đồng Hàng Từ Ngữ
3.4 Phủ Định
3.5 Bao Hàm
3.6 Liên Thanh Pháp (Samdhi)
3.7 Liên Thanh Của Vĩ Âm -Ah Và Àh
Ngoại Hạng
………………
………………


 
thông tin cuối bài viết 2
 
     

 

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây