094.278.3333 - 0888.959.000

187 Bà Triệu - quận Hai Bà Trưng - Hà Nội

TOÁT YẾU KINH TRUNG BỘ - HT THÍCH MINH CHÂU TOÁT YẾU KINH TRUNG BỘ - HT THÍCH MINH CHÂU Dịch: HT. Thích Minh Châu
Tóm Tắt & Chú: Thích Nữ Trí Hải
Nhà Xuất Bản: Hồng Đức 
Bìa: Mềm Có Tay Gập 
Khổ Sách: 14,5x20,5cm
Năm Xuất Bản: 2022
Trọn Bộ: 3 Quyển
Độ Dày: 5,8cm (Trọn Bộ)
KTB1 GIẢNG GIẢI KINH 400.000 đ Số lượng: 20 Bộ
  • TOÁT YẾU KINH TRUNG BỘ - HT THÍCH MINH CHÂU

  •  3732 Lượt xem
  • Mã sản phẩm: KTB1
  • Giá bán: 400.000 đ

  • Dịch: HT. Thích Minh Châu
    Tóm Tắt & Chú: Thích Nữ Trí Hải
    Nhà Xuất Bản: Hồng Đức 
    Bìa: Mềm Có Tay Gập 
    Khổ Sách: 14,5x20,5cm
    Năm Xuất Bản: 2022
    Trọn Bộ: 3 Quyển
    Độ Dày: 5,8cm (Trọn Bộ)


Số lượng
Lời Giới Thiệu
Công trình tóm tắt kinh Trung Bộ do cố Ni trưởng Thích Nữ Trí Hải thực hiện bằng thể văn vần là một công trình Phật học đáp ứng nhu cầu học Phật cho những ai muốn tìm hiểu và thực hành giáo pháp của Đức Phật, đặc biệt là cho những ai yêu thích thơ văn. Tuyển tập Trung Bộ kinh gồm 152 bài kinh chứa trọn tinh túy những lời dạy hết sức căn bản của Đức Phật cho mục tiêu giải thoát khổ đau. Mỗi bài kinh của Ngài là một thông điệp thoát khổ mà Đức Phật mong muốn gởi trao cho các học trò của mình và cho nhân loại. Lời Phật dạy là lời chân thật, hữu ích đặt trọng tâm vào mục tiêu giải thoát khổ đau cho con người và cuộc đời, nên luôn luôn mới mẻ và bổ ích cho mọi người trong mọi thời đại. Phải học tập, thực hành và chiêm nghiệm cho thật nhiều rồi mới thấy giá trị lợi lạc to lớn nằm đằng sau những lời dạy của Đức Phật.


 
toát yếu kinh trung bộ 1 min


Ni trưởng Trí Hải học sâu giáo lý của đức Bổn sư, có tấm lòng tha thiết với giáo pháp của đức Từ phụ, có lối diễn dịch chính xác và dễ hiểu những lời dạy của bậc Đạo sư, nên chúng tôi tin công trinh tóm tắt này chính là một phẩn tâm huyết của Ni trưởng trong sứ mạng hoằng pháp của người con Phật. Trân trọng giới thiệu công trình này đến quý Phật tử và quý độc giả.
TP. HCM ngày 20/5/2009
Tỳ-kheo THÍCH MINH CHÂU - Viện trưởng thiền viện Vạn Hạnh


 
toát yếu kinh trung bộ 2


Lời Đầu Sách
Ba tập Toát yếu Kinh Trung Bộ I, II và III này, tôi đã làm ít nhất ba lần, và mỗi lần đều làm sau khi đã đọc kỹ bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu. Thế nhưng mỗi lần tôi đều toát yếu một cách khác, nhất là sau khi được đọc bản phiên dịch và chú thích bằng Anh ngữ của Đại đức Ñaṇamoli và Đại đức Bodhi. Như vậy đủ biết, những lời Phật dạy như núi cao, biển cả, mà sự học hiểu của mình chỉ như một cái xẻng đào đất hay cái muỗng múc canh, mỗi lúc chỉ lấy được một ít và rất phiến diện. Bởi thế mà Hòa thượng thường dạy, ngài không bao giờ “giải thích” lời Phật dạy, mà chỉ cố gắng dịch cho đúng nguyên văn của Người xưa dù có tối nghĩa đến đâu. Đấy là cái đức khiêm cung của ngài, trong vô số đức tính mà tôi ngưỡng mộ.

Mình là ai mà dám toát yếu lời Phật dạy? Lỡ mình để tuột mất cái điểm cốt yếu trong lời Ngài dạy thì sao? Như vậy sẽ mang tội lớn với Phật, với Thầy, Tổ. Bởi vậy, càng ngày tôi càng miễn cưỡng trong việc phổ biến ba tập toát yếu này, vì sợ công ít mà tội nhiều. Khi làm xong tập thứ hai, đem khoe Thầy Chơn Thiện, Thầy phán rằng: “Kinh không bao giờ nên tóm tắt”. Tôi giật mình, và bỏ dở công việc gần hai năm trời, mặc dù đã gần xong tập cuối, đến kinh Nhất Dạ Hiền Giả. Sau đó, anh Hồ Hồng Phước ở Luân Đôn, người thường gửi cho tôi những sách Phật học bằng Anh ngữ mới xuất bản tại nước ngoài, thúc giục tôi gởi sang tiếp vì có người đã hào hứng in ra biếu không hai tập đầu. Thế là tôi lại hăng hái tiếp tục!

Mỗi kinh do Tôn giả Ānanda trùng tuyên đều bắt đầu với câu “Tôi nghe như vầy”, mà không nói “Đức Phật đã dạy như vầy”, điều ấy rất đáng bắt chước. Vì tôi là ai mà dám làm phát ngôn nhân cho Phật? Lỡ Phật nói một đường, tôi nghe một nẻo thì sao? Cho nên đây chỉ là theo như tôi được nghe, chứ không phải theo như lời Phật dạy.

Bản toát yếu này cũng thế. Đây chỉ là những gì do tôi hiểu được qua lời kinh, vào một thời điểm nào đó mà thôi. Và tôi đã toát yếu để cho tự mình nhớ được chút ít những lời vàng ngọc của đức Thế Tôn, để tự tu tập cho bản thân mình. Bởi thế người đọc hoàn toàn không thể bỏ qua bản gốc của Hòa thượng Thích Minh Châu đã dày công phiên dịch. Nếu đọc toát yếu này mà bỏ qua Kinh gốc thì cũng như bỏ đại dương để lấy vài giọt nước muối.

Vậy, sau hết và trước hết, bản toát yếu này chỉ là một tập sách giúp trí nhớ cho những ai đã nhiều lần nghiền ngẫm Kinh Trung Bộ, và có thể họ đã toát yếu một cách khác, thì sách này sẽ bổ túc cho trí nhớ của họ. Những người mới đọc Kinh Trung Bộ lần đầu, thì qua Toát yếu này sẽ nắm được vài ý để hướng dẫn mình trên đường tu tập chứ không chỉ là “chuyên ký danh ngôn” vì kỳ thực Phật không dạy điều gì nếu không phải để đưa người đến chuyển mê khai ngộ.  Xin dâng lên Hòa thượng lòng tri ân vô bờ bến.
Thích Nữ Trí Hải - Thành phố Hồ Chí Minh, 2001.


 
toát yếu kinh trung bộ 3 min



Trích “Toát Yếu Kinh Trung Bộ, Quyển 1 - Kinh Pháp Môn Căn Bản (Mùlapariyàya sutta)”:

Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú tại (tụ lạc) Ukkattha, trong rừng Subhaga (rừng Hạnh phúc), dưới gốc cây Sa-la vương. Tại chỗ ấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo!". - "Bạch Thế Tôn", những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói: "Này các Tỷ-kheo. Ta sẽ giảng cho các Người "Pháp môn căn bản tất cả pháp". Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói". - "Thưa vâng, bạch Thế Tôn", những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:

 (Phàm phu)

- Này các Tỷ-kheo, ở đây, có kẻ phàm phu ít nghe, không được thấy các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không được thấy các bậc Chơn nhân, không thuần thục pháp các bậc Chơn nhân, không tu tập pháp các bậc Chơn nhân, tưởng tri địa đại là địa đại. Vì tưởng tri địa đại là địa đại, người ấy nghĩ đến địa đại, nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với địa đại, nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, người ấy nghĩ: "Địa đại là của ta" - dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Ta nói người ấy không liễu tri địa đại.

Người ấy tưởng tri thủy đại là thủy đại. Vì tưởng tri thủy đại là thủy đại, người ấy nghĩ đến thủy đại, nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với thủy đại, nghĩ đến (tự ngã) như là thủy đại, người ấy nghĩ: "Thủy đại là của ta" - dục hỷ thủy đại. Vì sao vậy? Ta nói người ấy không liễu tri thủy đại. Người ấy tưởng tri hỏa đại là hỏa đại. Vì tưởng tri hỏa đại là hỏa đại, người ấy nghĩ đến hỏa đại, nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với hỏa đại, nghĩ đến (tự ngã) như là hỏa đại, người ấy nghĩ: "Hỏa đại là của ta"- dục hỷ hỏa đại. Vì sao vậy? Ta nói người ấy không liễu tri hỏa đại.


 
toát yếu kinh trung bộ 4 min


Người ấy tưởng tri phong đại là phong đại. Vì tưởng tri phong đại là phong đại, người ấy nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với phong đại, nghĩ đến (tự ngã) như là phong đại, người ấy nghĩ: "Phong đại là của ta"- dục hỷ phong đại. Vì sao vậy? Ta nói người ấy không liễu tri phong đại. Người ấy tưởng tri Sanh vật là Sanh vật... Người ấy tưởng tri chư Thiên là chư Thiên... Người ấy tưởng tri Sanh chủ là Sanh chủ... Người ấy tưởng tri Phạm thiên là Phạm thiên... Người ấy tưởng tri Quang âm thiên là Quang âm thiên... Người ấy tưởng tri Biến tịnh thiên là Biến tịnh thiên... Người ấy tưởng tri Quảng quả thiên là Quảng quả thiên... Người ấy tưởng tri Abhibhù (Thắng Giả) là Abhibhù...

Người ấy tưởng tri Không vô biên xứ là Không vô biên xứ... Người ấy tưởng tri Thức vô biên xứ là Thức vô biên xứ... Người ấy tưởng tri Vô sở hữu xứ là Vô sở hữu xứ... Người ấy tưởng tri Phi tưởng phi phi tưởng xứ là Phi tưởng phi phi tưởng xứ... Người ấy tưởng tri sở kiến là sở kiến... Người ấy tưởng tri sở văn là sở văn... Người ấy tưởng tri sở tư niệm là sở tư niệm... Người ấy tưởng tri sở tri là sở tri...

Người ấy tưởng tri đồng nhất là đồng nhất... Người ấy tưởng tri sai biệt là sai biệt... Người ấy tưởng tri tất cả là tất cả... Người ấy tưởng tri Niết-bàn là Niết-bàn... Vì tưởng tri Niết-bàn là Niết-bàn, người ấy nghĩ đến Niết-bàn, nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn. Nghĩ đến (tự ngã) như là Niết-bàn, người ấy nghĩ: "Niết-bàn là của ta" - dục hỷ Niết-bàn, Vì sao vậy? Ta nói: Người ấy không liễu tri Niết-bàn.


 
toát yếu kinh trung bộ 5


 (Vị hữu học)

Này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo, hữu học tâm chưa thành tựu, đang sống cần cầu vô thượng an ổn, khỏi khổ ách. Vị ấy thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng tri địa đại là địa đại, vị ấy đã không nghĩ đến địa đại, đã không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với địa đại, đã không nghĩ (tự ngã) như là địa đại, đã không nghĩ: "Địa đại là của ta", - không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Ta nói vị ấy có thể liễu tri địa đại.

Vị ấy thắng tri thủy đại... hỏa đại... phong đại... Sanh vật... chư Thiên... Sanh chủ... Phạm thiên... Quang âm thiên... Biến tịnh thiên... Quảng quả thiên... Abhibhù (Thắng Giả)... Không vô biên xứ... Thức vô biên xứ... Vô sở hữu xứ... Phi tưởng phi phi tưởng xứ... sở kiến... sở văn... sở tư niệm... sở tri... đồng nhất... sai biệt... tất cả...

Vị ấy thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn; vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, vị ấy đã không nghĩ đến Niết-bàn, đã không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn, đã không nghĩ (tự ngã) như là Niết-bàn, đã không nghĩ: "Niết-bàn là của ta" - không dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Ta nói vị ấy có thể liễu tri Niết-bàn.


 
toát yếu kinh trung bộ 6


 (Bậc A-la-hán - I)

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, chánh trí giải thoát. Vị ấy thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng tri địa đại là địa đại, vị ấy không nghĩ đến địa đại, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, không nghĩ: "Địa đại là của ta" - không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Ta nói vị ấy đã liễu tri địa đại.

Vị ấy thắng tri thủy đại... hỏa đại... phong đại... sanh vật... chư Thiên... Sanh chủ... Phạm thiên... Quang âm thiên... Biến tịnh thiên... Quảng quả thiên... Abhibhù (Thắng Giả)... Không vô biên xứ... Thức vô biên xứ... Vô sở hữu xứ... Phi tưởng phi phi tưởng xứ... sở kiến... sở văn... sở tư niệm... sở tri... đồng nhất... sai biệt... tất cả... Vị ấy thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn. Vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, vị ấy không nghĩ đến Niết-bàn, vị ấy không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) như là Niết-bàn, không nghĩ: "Niết-bàn là của ta" - không dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Ta nói vị ấy đã liễu tri Niết-bàn".


 
toát yếu kinh trung bộ 7


 (Bậc A-la-hán - II)

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, chánh trí giải thoát. Vị ấy thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng trí địa đại là địa đại, vị ấy không nghĩ đến địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, không nghĩ: "Địa đại là của ta" - không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Vì vị ấy không có tham dục, nhờ tham dục đã được đoạn trừ.

Vị ấy thắng tri thủy đại... hỏa đại... Vị ấy thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn. Vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, vị ấy không nghĩ đến Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) như là Niết-bàn, không nghĩ: "Niết-bàn là của ta" - không dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Vì vị ấy không có tham dục, nhờ tham dục đã được đoạn trừ.

 (Bậc A-la-hán - III)

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, chánh trí giải thoát. Vị ấy thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng tri địa đại là địa đại, vị ấy không nghĩ đến địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, không nghĩ: "Địa đại là của ta" - không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Vì vị ấy không có sân hận, nhờ sân hận đã được đoạn trừ.

Vị ấy thắng tri thủy đại... hỏa đại... Vị ấy thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn. Vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, vị ấy không nghĩ đến Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) như là Niết-bàn, không nghĩ: "Niết-bàn là của ta" - không dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Vì vị ấy không có sân hận, nhờ sân hận đã được đoạn trừ.

(Bậc A-la-hán - IV)

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, chánh trí giải thoát. Vị ấy thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng trí địa đại là địa đại, vị ấy không nghĩ đến địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, không nghĩ: "Địa đại là của ta" - không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Vì vị ấy không có si mê, nhờ si mê đã được đoạn trừ.

Vị ấy thắng tri thủy đại... hỏa đại... Vị ấy thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn. Vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, vị ấy không nghĩ đến Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) như là Niết-bàn, không nghĩ: "Niết-bàn là của ta" - không dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Vì vị ấy không có si mê, nhờ si mê đã được đoạn trừ…


 
 

MỤC LỤC:
Trung Bộ Kinh Quyển I
Pháp Môn Căn Bản
Tất Cà Lậu Hoặc
Thừa Tự Pháp
Sợ Hãi Và Khiếp Đảm
Không Uế Nhiễm
Ước Nguyện
Ví Dụ Tấm Vải
Đoạn Giảm
Chính Tri Kiến
Niệm Xứ
Tiểu Kinh Sư Tử Hống
Đại Kinh Sư Tử Hống
Đại Kinh Khổ Uẩn
Tiểu Kinh Khổ Uẩn
Tư Lượng
Tâm Hoang Vu
Khu Rừng
Mật Hoàn
Song Tầm
An Trú Tầm
Ví Dụ Cái Cưa
Ví Dụ Con Rắn
Gò Mối
Trạm Xe
Bẫy Mồi
Thánh Cầu
Tiểu Kinh Dụ Dấu Chân Voi
Đại Kinh Dụ Dâu Chân Voi
Thí Dụ Lõi Cây
Thí Dụ Lõi Cây
Tiểu Kinh Rừng Sừng Bò
Đại Kinh Rừng Sừng Bò
Đại Kinh Người Chăn Bò
Tiểu Kinh Người Chăn Bò
Tiểu Kinh Saccaka
Đại Kinh Saccaka
Tiểu Kinh Đoạn Tận Ái
Đại Kinh Đoạn Tận Ái
Đại Kinh Xóm Ngựa
Tiểu Kinh Xóm Ngựa
Bà La Môn Ở Sàla Và Veranja
Bà La Môn Ở Sàla Và Veranja
Đại Kinh Phương Quảng
Tiểu Kinh Phương Quảng
Tiểu Kinh Pháp Hành
Đại Kinh Pháp Hành
Tư Sát
Kosambiya
Phạm Thiên Cầu Thỉnh
Hàng Ma
Trung Bộ Kinh Quyển II
51) Kinh Kandaraka
52) Kinh Bát Thành
53) Kinh Hữu Học
54) Kinh Potaliya
55) Kinh Jivaka
56) Kinh Ưu-Ba-Ly
57) Kinh Hạnh Con Chó
58) Kinh Vương Tử Vô-Úy
59) Kinh Nhiều Cảm Thọ
60) Kinh Không Gì Chuyển Hướng
61) Kinh Giáo Giới La-Hầu-La Ở Am-Bà-La
62) Đại Kinh Giáo Giới La-Hầu-La
63) Tiểu Kinh Malunkyaputta
64) Đại Kinh Malunkyaputta
65) Kinh Bhaddali
66) Kinh Ví Dụ Con Chim Cáy
67) Kinh Catuma
68) Kinh Nalakapana
69) Kinh Gulissani
70) Kinh Kitagiri
71) Kinh Vacchagotta Về Tam Minh
72) Kinh Vacchagotta Về Lửa
73) Đại Kinh Vacchagotta
74) Kinh Trường Trảo
75) Kinh Magandiya
76) Kinh Sandaka
77) Đại Kinh Sakuludayi
78) Kinh Samanamandika
79) Tiểu Kinh Sakuludayi
80) Kinh Vekhanassa
81) Kinh Ghatikara
82) Kinh Ratthapala
83) Kinh Makhadeva
84) Kinh Madhura
85) Kinh Vương Tử Bồ-Đề
86) Kinh Angulimala
87) Kinh Ái Sanh
88) Kinh Bahitika
89) Kinh Pháp Trang Nghiêm
90) Kinh Kannakatthala
91) Kinh Brahmayu
92) Kinh Sela
93) Kinh Assalayana
94) Kinh Ghotamukha
95) Kinh Canki
96) Kinh Esukari
97) Kinh Dhananjani
98) Kinh Vasettha
99) Kinh Subha
100) Kinh Sangarava
Trung Bộ Kinh Quyển III
101) Kinh Devadaha
102) Kinh Năm Và Ba
103) Kinh Nghĩ Như Thế Nào?
104) Kinh Làng Sama
105) Kinh Thiện Tinh
106) Kinh Bất Động Lợi Ích
107) Kinh Ganaka Moggalana
108) Kinh Gopaka Moggalana
109) Đại Kinh Mãn Nguyệt
110) Tiểu Kinh Mãn Nguyệt
111) Kinh Bất Đoạn
112) Kinh Sáu Thanh Tịnh
113) Kinh Chân Nhân
114) Kinh Nên Hành Trì, Không Nên Hành Trì
115) Kinh Đa Giới
116) Kinh Thôn Tiên
117) Đại Kinh Bốn Mươi
118) Kinh Nhập Tức Xuất Tức Niệm
119) Kinh Thân Hành Niệm
120) Kinh Hành Sanh
121) Kinh Tiểu Không
122) Kinh Đại Không
123) Kinh Hy Hữu Vị Tằng Hữu Pháp
124) Kinh Bạc-Câu-La
125) Kinh Điều Ngự Địa
126) Kinh Phù-Di
127) Kinh A-Na-Luật
128) Kinh Tùy Phiền Não
129) Kinh Hiền Ngu
130) Kinh Thiên Sứ
131) Kinh Nhất Dạ Hiền Giả
132) Kinh A-Nan Nhất Dạ Hiền Giả
133) Kinh Đại Ca-Chiên-Diên Nhất Dạ Hiền Giả
134) Kinh Lomasakangiya Nhất Dạ Hiền Giả
135) Tiểu Kinh Nghiệp Phân Biệt
136) Đại Kinh Nghiệp Phân Biệt
137) Kinh Phân Biệt Sáu Xứ
138) Kinh Tổng Thuyết Và Biệt Thuyết
139) Kinh Vô Tránh Phân Biệt
140) Kinh Giới Phân Biệt
141) Kinh Phân Biệt Về Sự Thật
142) Kinh Phân Biệt Cúng Dường
143) Kinh Giáo Giới Cấp Cô Độc
144) Kinh Giáo Giới Channa
145) Kinh Giáo Giới Phú-Lâu-Na
146) Kinh Giáo Giới Nandaka
147) Tiểu Kinh Giáo Giới La-Hầu-La
148) Kinh Sáu Sáu
149) Đại Kinh Sáu Xứ
150) Kinh Nói Cho Dân Chúng Nagaravinda
151) Kinh Khất Thực Thanh Tịnh
152) Kinh Căn Tu Tập


 
thông tin cuối bài viết 2
 
     

 

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây