PHÁP HOA KINH THÔNG NGHĨA - HT THÍCH TRÍ TỊNHDịch & Giảng: Thích Trí Tịnh Nhà Xuất Bản: Hồng Đức Bìa: Mềm – Có Tay Gập Khổ Sách: 14x20cm Năm Xuất Bản: 2019 Trọn Bộ: 3 QuyểnTR01THÍCH TRÍ TỊNH550.000đSố lượng: 100 Bộ
Lời Tựa Thuở xưa, ngài Thiên Thai Trí Giả đại sư chuyên trì kinh Pháp Hoa, chứng được Pháp Hoa tam-muội. Ngài thấy được hội Linh Sơn nghiễm nhiên chưa tan, bèn thông dùng ba pháp quán (chơn, giả, trung) để giải thích toàn thể kinh Pháp Hoa, nhẫn đến bách giới thiên như, tổng quy về nơi quán tâm. Trong bộ Huyền Nghĩa và Thích Thiêm rất là tinh tường. Chỉ vì văn thì quá rộng mà nghĩa lý lại rất sâu, khiến cho người kiến thức cạn khó (vào) thấy được, đại khái rất rườm rà, mà hàng Tổng môn chuộng đó lại rất ít. Ngài Ôn Lăng thiền sư ban đầu làm yếu giải văn gọn mà nghĩa tột, gá nơi sự để tiêu biểu cho pháp, thanh nhã mà có chỉ quy. Vả lại, tông nghĩa của Hoa Nghiêm, là một kinh ban đầu, và một kinh rốt sau (Pháp Hoa) rất là vừa đúng. Bởi ý chỉ nơi giản yếu nên chưa phát huy hết thủy chung nguyên bổn. Do đó, người đọc chưa có thể thấu suốt được ý chỉ nguyên thủy yếu chung. Tóm lại có hơi thiếu sót vậy.
Nhưng có hai nhà phán kinh toàn bộ (ngài Thiên Thai và Ôn Lăng) đều lấy tám phẩm sau chung nhập làm phần lưu thông, in tuồng như chưa thông suốt được quy thú. Người học nhìn lướt qua cho là tầm thường, đến nỗi ý của Phật chưa thông mà chỉ thú của kinh cũng chưa rõ, ở nơi văn tự đều cho là rườm rà. Đức Thanh tôi từ thuở nhỏ đã vào hội giảng kinh, chỗ nghe và chỗ học tập chẳng đồng, mà trộm có ý nghi nên thường để tâm tham cứu. Ngày trước, nhờ ơn khi bị lưu đày, trước nhục với ngài Đạt Quán thiền sư lúc nghe tôi mắc nạn, nên vì tôi mà hứa tụng một trăm bộ Pháp Hoa để tiêu tội đời trước. Trên đường lưu đày, bèn mở đạo tràng ở những nơi cao ráo hợp các đệ tử lại để trì tụng. Chúng thỉnh giảng thuyết một vòng, bỗng nhiên có chỗ khế hội, bèn dùng bốn chữ “khai thị, ngộ, nhập” để phán toàn kinh Pháp Hoa. Mọi người đều vui đẹp, nhân đó biên ra thành tập, trước sau xuyên suốt, rồi dùng bốn môn “tín, giải, hạnh, chứng” của Hoa Nghiêm để thâu đó, lược không còn pháp nào thừa.
Thỉnh hỏi các bậc cao minh thì trong đó có người hứa khả. Nhân nghĩ đến phần đại cương, dù đã nắm được để chia phẩm mục, mà kinh thì chưa hội thông, chẳng tiện cho hàng sơ học. Thế nên, tôi thuật phẩm tiết để trình bày ý chỉ toàn kinh, vẫn còn lược mà chưa rõ. Bởi vì Tổng Hoa Nghiêm phát minh “đức Như Lai xuất thế là vì một đại sự nhân duyên”. Ở phẩm Phương Tiện, đức Như Lai đã tự thuật rất rõ, vì thứ lớp truyền nhau không rõ nơi đầu nguồn, thế nên, người học chẳng khỏi trống ra biển mà than vậy. Do đó, nay tôi lại làm bộ “Thông Nghĩa”. Bởi tôn trọng bậc cổ đức và các bộ giải xưa, chẳng dám vọng làm giải thích. Chỉ hội thông toàn kinh, để quy về nơi “khai thị ngộ nhập Phật tri kiến”, hầu phát minh ý chỉ rộng lớn trước sau xuyên suốt của kinh Hoa Nghiêm, để đề xướng bổn hoài xuất thế của Như Lai. Nếu hiệp các dòng mà quy về nơi biển cả thì trọng ở cương Tông, mà văn ngôn có thể lược, cho nên thông đại nghĩa kia dù chế ra chẳng theo nơi xưa, mà lý thì có chỗ sở Tông. Trông mong người xem không vì người mà bỏ lời thì cái tội lấn lướt người trên của tôi có thể tha thứ được vậy. Hám Sơn Đức Thanh Hân tịnh Tỷ-kheo Thích Trí Tịnh dịch
Trích "Phần Tổng Hiển - Phẩm Tựa": Chánh Văn: 1. Tôi nghe như thế này: Một thuở nọ đức Phật ở trong núi Kỳ-xà Quật, nơi thành Vương-xá cùng chúng đại Tỷ-kheo một muôn hai nghìn người câu hội. Các vị đó đều là bậc A-la-hán, các lậu đã hết, không còn phiền não, việc lợi mình đã xong, dứt sự ràng rịt trong các cõi, tâm được tự tại. Tên của các vị đó là: A-nhã Kiều-trần-như, Ma-ha Ca-diếp, Ưu-lầu-tần-loa Ca- diếp, Dà-gia Ca-diếp, Na-đề Ca-diếp, Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên, Ma-ha Ca-chiên-diên, A-nậu-lâu- đà, Kiếp-tân-na, Kiều-phạm-ba-đề, Ly-bà-đa, Tất- lăng-già-bà-ta-bạc-câu-la, Ma-ha Câu-si-la, Nan-đà, Tôn-đà-la Nan-đà, Phú-lầu-na-di-la-ni-tử, Tu-bồ-đê, A-nan, La-hầu-la v.v... đó là những vị đại A-la-hán hàng tri thức của chúng. Lại có bậc hữu học và vô học hai nghìn người.= Bà Tỷ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề cùng với quyền thuộc sáu nghìn người câu hội. Mẹ của La-hầu-la là bà Tỷ-kheo-ni Gia-thâu-đà-la cũng cùng với quyến thuộc câu hội.
Giảng Giải: Đây là nghi thức kết tập Pháp tạng, là lúc đức Thế Tôn sắp nhập diệt, ngài A-nan thưa lời dạy tối hậu, phần để nơi đầu chung của các kinh, đủ như các kinh thường trình bày. Chỉ Phật thuyết pháp, đều gọi là xứng với cơ nghi, những chúng được liệt bày ra, lấy hàng đương cơ làm đầu. Kinh Pháp Hoa này là pháp tối thượng Nhất thừa để dạy hàng Bồ-tát, mà đem hàng Thanh văn để ở đầu đó là do vì nay dạy về “Khai Quyền hiển Thật”, đặc biệt vì dẫn nhiếp hàng Nhị thừa vào Phật tri kiến, thọ ký thành Phật, cho nên mới có làm bậc thượng thủ. Nếu luận về khen nơi đức, thì nói các lậu đã hết tâm được tự tại, đó là chánh hiển bày hàng Nhị thừa tâm đã được điều nhu, kham lãnh thọ đại pháp, đây chính là lúc căn cơ đã được thuần thục đắc đạo, nên ở dưới đây mới liệt kê ra các đệ tử là những người đó. Hàng hữu học Tỷ-kheo-ni v.v... cũng để ở đầu đó là do đức Phật giáo hóa có Nhân, có Thân. Những người khác đều thuộc về Nhân, còn ở đây là thuộc về Thân. Nhân duyên Phật tánh chính là ở đây đó vậy. Đến dưới đây đều được thọ ký là vì liễu nhân Phật tánh hiển liễu, đó là làm việc lợi ích chúng sinh đã xong.
Chánh Văn: 2. Bậc Đại Bồ-tát tám muôn người đều không thối chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đều chứng đặng pháp Đà-la-ni, nhạo thuyết biện tài, chuyển nói pháp luận bất thổi chuyển, từng cúng dường vô lượng trăm nghìn chư Phật, ở nơi các đức Phật trồng các cội công đức, thường được các Phật ngợi khen, dùng đức từ để tu thân, khéo chứng trí huệ của Phật, thông đạt đại trí đến nơi bờ kia, danh đồn khắp vô lượng thể giới, có thể độ vô số trăm nghìn chúng sinh. Tên của các vị đó là: Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát, Quán Thế Âm Bồ-tát, Đắc Đại Thế Bồ-tát, Thường Tinh Tấn Bồ-tát, Bất Hưu Tức Bồ-tát, Bảo Chưởng Bồ-tát, Dược Vương Bồ-tát, Dõng Thí Bồ-tát, Bảo Nguyệt Bồ-tát, Nguyệt Quang Bồ-tát, Mãn Nguyệt Bồ-tát, Đại Lực Bồ-tát, Vô Lượng Lực Bồ-tát, Việt Tam Giới Bồ-tát, Bạt-đà-bà-la Bồ-tát, Di-lặc Bồ-tát, Bảo Tích Bồ-tát, Đạo Sư Bồ-tát v.v... các vị đại Bồ-tát như thể tám muôn người thuộc hai muôn vị Thiên tử câu hội.
Lúc bấy giờ, Thích Đề Hoàn Nhơn cùng quyến Lại có Minh Nguyệt thiên tử, Phổ Hương thiên tử, Bảo Quang thiên tử, bốn vị đại Thiên vương cùng với quyến thuộc một muôn Thiên tử câu hội. Tự Tại thiên tử, Đại Tự Tại thiên tử cùng với quyền thuộc ba vạn Thiên tử câu hội. Chủ cõi Ta-bà: Phạm Thiên Vương, Thi-khí Đại Phạm, Quang Minh Đại Phạm v.v... cùng với quyến thuộc một muôn hai nghìn vị Thiên tử câu hội. Có tám vị Long vương: Nan-đà Long vương, Bạt Nan-đà Long vương, Ta-dà-la Long vương, Hòa-tu- kiết Long vương, Đức-xoa-ca Long vương, A-na-bà-đạ-đa Long vương, Ma-na-tư Long vương, Ưu-bát-la Long vương v.v... đều cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến thuộc câu hội.
Có bốn Khẩn-na-la vương: Pháp Khẩn-na-la vương, Diệu Pháp Khẩn-na-la vương, Đại Pháp Khẩu- na-la vương, Trì Pháp Khẩn-na-la vương đều cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến thuộc câu hội. Có bốn vị Càn-thát-bà vương: Nhạc Càn-thát-bà vương, Nhạc Âm Càn-thát-bà vương, Mỹ Càn-thát-bà vương, Mỹ Âm Càn-thát-bà vương đều cùng bao nhiêu trăm nghìn quyền thuộc câu hội. Có bốn vị A-tu-la vương: Bà-trỉ A-tu-la vương, Khư-la Khiên-đà A-tu-la vương, Tỳ-ma-chất-đa-la A-tu-la vương, La-hầu A-tu-la vương đều cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến thuộc câu hội. Có bốn vị Ca-lầu-la vương: Đại Oai Đức Ca-lầu- la vương, Đại Thân Ca-lầu-la vương, Đại Mãn Ca-lầu la vương, Như Ý Ca-lầu-la vương đều cùng bao nhiêu quyến thuộc câu hội. Vua A-xà-thế, con bà Vi-đề-hi cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến thuộc câu hội. Cả chúng đều lễ chân Phật, lui ngồi một phía.
Giảng Giải: Trong phần Tựa này là rộng liệt bày đại chúng trong pháp hội. Chư Đại Bồ-tát là để giúp Phật tuyên dương giáo hóa làm pháp quyến thuộc. Do vì Phật là bậc xuất thế chí Thánh, pháp được Phật nói là lời luận bàn tuyệt thế, tự chẳng phải là bậc Pháp thân Đại sĩ, thì làm sao có thể cổ xướng được. Ngài Văn-thù đó là thầy của bảy đức Phật thể diệu khế Phật tầm, cho nên ở nơi bậc thượng thủ. Kinh Pháp Hoa này dùng trí để lập thể, là chỗ sở tông. Đến như hàng chư Thiên, nhân, Long, Thần, Bát bộ, thường theo Phật giáo hóa, làm chúng hộ pháp cho nên đều có ở nơi tòa Do vì đức Như Lai xuất thế để hóa độ chúng sinh đều thành Phật đạo, đây là bản hoài của Phật. Nay vì hàng Nhị thừa mỗi mỗi thọ ký đều được thành Phật là sắp xong việc lợi sinh. Chính giống như ông Trưởng giả sắp lâm chung ủy phó gia nghiệp, bèn hội họp thân tộc quốc vương, đại thần, Sát-đế-lợi, cư sĩ để làm chứng minh mà phó chúc. Sở dĩ, trong hội Linh Sơn’ ở đây không thiếu một người, có thể tưởng tượng sự tập hợp kia rất thù thắng vậy. Như trên hội Hoa Nghiêm tập hợp đồ chúng, đồng với thân dị sinh có 42 bậc để tiêu biểu đều riêng được nhất vị pháp môn, viên thành quả hải. Do đây, nên biết các kinh liệt bày đại chúng đều có chỗ sở tổng...
MỤC LỤC: TẬP 1 Duyên Khởi Lời Đầu Lời Tựa Lời Phán Trước Giải Thích Đề Kinh A – Phần Tổng Hiển Thứ Nhất – Phẩm “Tựa” Thứ Hai – Phẩn “Phương Tiện” Thứ Ba – Phẩm “Thí Dụ” Thứ Tư – Phẩm “Tín Giải” TẬP 2 Thứ Năm – Phẩm “Dược Thảo Dụ” Thứ Sáu – Phẩm “Thọ Ký” Thứ Bảy – Phẩm “Hóa Thành Dụ” Thứ Tám – Phẩm “Ngũ Bá Đệ Tử Thọ Ký” Thứ Chín – Phẩm “Thọ Học, Vô Học Nhân Ký” Thứ Mười – Phẩm “Pháp Sư” B – Phần Chánh Tông Thứ Mười Một – Phẩm “Hiện Bảo Tháp” Thứ Mười Hai – Phẩm “Đề-Bà-Đạt-Đa” Thứ Mười Ba – Phẩm “Trì” Thứ Mười Bốn – Phẩm “An Lạc Hạnh” TẬP 3 Thứ Mười Lăm – Phẩm “Tùng Địa Dũng Xuất” Thứ Mười Sáu – Phẩm “Như Lai Thọ Lượng” Thứ Mười Bảy – Phẩm “Phân Biệt Công Đức” Thứ Mười Tám – Phẩm “Tùy Hỷ Công Đức” Thứ Mười Chín – Phẩm “Pháp Sư Công Đức” Thứ Hai Mươi – Phẩm “Thường Bất Khinh Bồ Tát” Thứ Hai Mươi Mốt – Phẩm “Như Lai Thần Lực” Thứ Hai Mươi Hai – Phẩm “Chúc Lụy” Thứ Hai Mươi Ba – Phẩm “Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự” Thứ Hai Mươi Bốn – Phẩm “Diệu Âm Bồ Tát” Thứ Hai Mươi Lăm – Phẩm “Quan Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn” Thứ Hai Mươi Sáu – Phẩm “Đà-La-Ni” Thứ Hai Mươi Bảy – Phẩm “Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn Sự” Thứ Hai Mươi Tám – Phẩm “Phổ Hiền Bồ Tát Khuyến Phát” C – Phần Lưu Thông Kệ Hồi Hướng