Những Lời Tâm Huyết
Theo như sử liệu mười ba vị Tổ Sư Liên Tông Tịnh Độ, Tổ Sư Ấn Quang là Tổ Sư Tịnh Độ thứ mười ba. Tổ Sư Ấn Quang, một đời tu pháp môn Tịnh Độ và hoằng dương pháp môn Tịnh Độ. Pháp môn Tịnh Độ dành cho ba căn: thượng căn, trung căn và hạ căn. Tổ Sư Ấn Quang dạy rằng: “Pháp môn quảng đại, phổ bị tam căn, nhân tu cửu giới đồng quy, thập phương cộng tán. Phật nguyện hồng thâm, bất di nhất vật, cổ đắc thiên kinh tịnh xiển, vạn luận quân tuyên”. Nghĩa là: “Pháp môn rộng lớn, độ khắp ba căn, do vậy chín giới cùng hướng về, mười phương cùng khen ngợi. Phật nguyện rộng sâu, chẳng sót một ai, nên được ngàn kinh đều xiển dương, muôn luận cùng tuyên nói”. Do vậy, chúng sanh trong chín giới hễ lìa pháp môn này thì trên chẳng thể viên thành Phật đạo, mười phương chư Phật bỏ pháp môn này thì dưới chẳng thể phổ độ quần sanh. 
Hơn nữa, Tổ Sư Ấn Quang một đời tận lực đề sướng cội gốc để lập thân và giáo dục trong gia đình là “dứt lòng tà, giữ lòng thành, đánh đổ ham muốn xằng bậy của chính mình để khôi phục lễ nghĩa, đôn đốc luân thường, tin sâu nhân quả, luân hồi, báo ứng, dè dặt kiêng sợ nghiệp báo. Kiêng giết, ăn chay, phóng sanh, tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương Cực Lạc”. “Hễ nói được phải làm được, hễ làm không được bèn chẳng chịu nói. Dùng lời nói để dạy sẽ bị tranh cãi, dùng thân để dạy, người ta sẽ thuận theo. Như vậy trong hiện đời sẽ dự vào bậc Hiền Thánh, lúc lâm chung quyết định vãng sanh cõi Cực Lạc. Như thế thì sẽ có thể gọi là bậc đại trượng phu, đệ tử thật sự của Đức Phật”.
Theo như Hoà Thượng Tịnh Không kể lại, khi Hòa Thượng đến Đài Trung học pháp với Lão Cư Sĩ Lý Bỉnh Nam. Ngài Lý Bỉnh Nam nói, khi tôi dạy ông học 5 năm xong, tôi sẽ giới thiệu cho ông một vị Thầy khác. Năm năm sau, Ngài Lý Bỉnh Nam đưa cho Hoà Thượng Tịnh Không bộ sách Ấn Quang Văn Sao Tục Biên và Ấn Quang Văn Sao Tăng Quảng Chánh Biên. Ngài Lý Bỉnh Nam nói, Ấn Tổ là Thầy Tôi đã vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, nhưng những lời dạy trong Văn Sao nếu ai có lòng tin chân thành và thực hành theo thì hữu ích thọ dụng không cùng tận. 
Chúng tôi xin trân trọng cung kính giới thiệu đến quý vị pháp lữ gần xa 2 bộ sách. Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên (gồm hai quyển Thượng và Hạ) và Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tăng Quảng Chánh Biên (gồm hai cuốn 4 quyển). Đây là 2 bộ sách, nội dung có 714 lá thư của Tổ Ấn Quang trả lời cho những người gởi thư đến. Trong 714 lá thư, lời lẽ chân thật, rõ ràng, thâm sâu, rất dễ áp dụng và rất có hữu ích cho các vị đồng tu Tịnh Độ. Hơn nữa, trong bộ sách này, Ngài viết lời tựa cho những kinh luận và trả lời những câu hỏi cho các vị xuất gia, tại gia. Và viết những bài ký về sự sanh Tây Phương của các vị Cư Sĩ rất thâm sâu. Bộ Ấn Quang Văn Sao Tam Biên đúng là của báu truyền đời của mọi người, văn tự tuy vụng về chất phác, nhưng chẳng có một chữ nào vô dụng.
Theo chúng tôi thiết nghĩ. Nếu hành giả tu pháp môn Tịnh Độ, cũng như những gia đình Phật tử muốn hiện đời này làm đệ tử chân thật của Phật, Bồ Tát và Thánh Hiền, sau khi bỏ báo thân này vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, dự vào Liên Trì Hải Hội. Nên lấy bộ sách Văn Sao này làm tư lương hành trang, để tấn tu đạo nghiệp thì không uổng phí đời người. Quý vị đọc qua bộ sách này với tâm hời hợt giống như đọc tiểu thuyết, thì không có hữu ích cho lắm. Bằng đọc với tâm chân thành, cung kính, xem đây là pháp bảo vô giá, đọc đi đọc lại nhiều lần và đọc sách này giống như người con hiếu thảo đọc “Di Chúc” trước linh cửu của Cha Mẹ mình mới mất, thì lợi ích vô cùng. Nếu không đọc qua bộ sách Ấn Quang Văn Sao này, thì thiệt là thiếu sót và hành giả tu pháp môn Tịnh Độ dễ bị lầm lạc.
Chúng tôi bằng tất cả tấm lòng cung kính, dâng lên cúng dường bộ sách Văn Sao Pháp Bảo quý giá, một đời không thể thiếu đến với các vị Liên Hữu gần xa. Kính mong các vị dành chút thời gian quý báu đọc và suy gẫm áp dụng lời của Tổ Sư Ấn Quang, chắc chắn cuộcđời của quý vị sẽ có sự ngầm ngầm thay đổi, một đời thọ dụng không hết. Vì trong bộ sách Ấn Quang Văn Sao này, là Tổ Sư Ấn Quang lấy những lời của Phật, Bồ Tát và các vị Tổ Sư đi trước, áp dụng trong đời sống tu hành của mình, tự thân đã có sở chứng. Cho nên những người được Ấn Tổ trả lời thư và những người về sau đọc qua thư và áp dụng những lời của Tổ Sư Ấn Quang dạy, ai ai cũng có lợi ích nơi bản thân và gia đình vô biên cùng tận. Tổ Sư Ấn Quang dạy rằng: “Tâm này làm Phật, tâm này là Phật, tâm này làm chúng sanh, tâm này là chúng sanh và tâm này tạo được nghiệp thì tâm này chuyển được nghiệp, tâm chẳng thể chuyển được nghiệp, thì nghiệp sẽ trói buộc tâm.
Đọc kĩ bộ sách Văn Sao thì tất cả những khúc mắc đều được tháo gỡ. Chỉ cần tu theo đúng những gì trong Văn Sao đã nói thì cũng là người trong Liên Trì Hải Hội”. Quý vị nên khuyên người nhà đọc và nếu cha, mẹ, ông, bà không đọc được, quý vị nên đọc cho họ nghe. Nếu không có thời gian đọc thì thỉnh máy MP3 để họ nghe. Chúng tôi có cho đọc sách này ra MP3. Còn ai đọc được thì nên đọc. Khi quý vị đọc, nếu thấy đoạn nào thích thú tâm đắc nên chép ra cuốn tập, đọc đi đọc lại thì sẽ khởi được tác dụng trong tâm lớn lao vô cùng. Mỗi ngày chúng ta đọc 5 hoặc 10 hoặc 20 lá thư của Ấn Tổ. Đọc đến 500, 600 lá thư thì chúng ta cảm thấy có tác dụng khởi lên trong tâm. Đây là bộ sánh gia bảo gối đầu giường, mỗi đêm trước khi đi ngủ chúng ta đọc. Đọc một thời gian thì tư tưởng của mình có sự chuyển biến thây đổi.
Cuối cùng chúng tôi có những lời tâm huyết này là để người người, nhà nhà, đều đọc được lời của Tổ Sư Ấn Quang, rồi áp dụng trong cuộc sống sẽ có lợi ích thật sự. Quý vị nên giới thiệu cho bạn bè gần xa. Đây là công đức pháp thí thật lớn lao. Cho người ta một số tiền chỉ giúp cho họ cơm no áo ấm một thời gian ngắn ngủi cũng tốt, nhưng không bằng giúp cho họ gặp được pháp bảo Văn Sao của Ấn Tổ, thì cuộc đời của họ sẽ được an vui, hết khổ đau, biết lánh dữ làm lành, ăn chay, phát tâm niệm Phật cầu vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, không còn sanh tử luân hồi. Công đức này lớn lao vô cùng. Trích lời của Tổ Ấn Quang Khuyên người đọc sách: “Đọc giả cần phải chú trọng cung kính, kiền thành, khiết tịnh, lắng lòng suy nghĩ lãnh hội thì vô biên lợi ích sẽ đích thân đạt được. Nếu như khinh nhờn, sẽ mắc tội chẳng cạn. Nếu chẳng muốn xem, xin hãy tặng cho người khác, đừng cất trên gác cao. Lại mong đọc giả xem xong, sẽ lập đủ mọi cách để xoay vần lưu truyền, ngõ hầu hết thảy đồng bào trong hiện tại lẫn vị lại đều cùng thoát khỏi đường mê, đều cùng lên bờ giác”.
(Trân Trọng Cung Kính Pháp Bảo). 
Trích "Quyển Thượng - Một Lá Thư Gởi Khắp":
Lời lẽ tuy vụng về chất phác, nhưng nghĩa vốn lấy từ kinh Phật. Nếu chịu hành theo, lợi lạc vô cùng. Năm Dân Quốc 21 – 1932 Pháp môn Tịnh Độ, độ khắp ba căn, lợi - độn trọn thâu, chính là đại pháp để đức Như Lai phổ độ hết thảy thượng thánh hạ phàm khiến cho họ liễu sanh tử ngay trong một đời này. Đối với pháp này chẳng tin, chẳng tu, chẳng đáng buồn ư? Pháp môn này lấy ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh làm tông. Tín là tin thế giới chúng ta đây là khổ, tin thế giới Cực Lạc là vui. Tin ta là nghiệp lực phàm phu, quyết định chẳng thể cậy vào Tự Lực để đoạn Hoặc chứng Chân hòng liễu sanh thoát tử. Tin A Di Đà Phật có đại thệ nguyện; nếu có chúng sanh niệm danh hiệu Phật, cầu sanh cõi Phật, người ấy lúc mạng chung, Phật ắt rủ lòng từ tiếp dẫn sanh về Tây Phương. Nguyện là nguyện mau thoát lìa thế giới khổ sở này, nguyện mau vãng sanh thế giới Cực Lạc kia. Hạnh là chí thành khẩn thiết, thường niệm Nam Mô (âm đọc là Nạp-mạc) A Di Đà Phật, thời thời khắc khắc chớ để tạm quên.
Sáng tối đối trước Phật lễ bái, trì tụng, tùy theo bản thân rảnh rỗi hay bận bịu mà lập một khóa trình. Ngoài ra, [trong lúc] đi - đứng - ngồi - nằm và làm những chuyện chẳng phải dùng đến tâm thì đều khéo niệm. Lúc ngủ nên thầm niệm, chẳng nên niệm ra tiếng. Chỉ nên niệm bốn chữ A Di Đà Phật để khỏi bị nhiều chữ khó niệm. Nếu áo mũ không chỉnh tề, hoặc đang lúc rửa ráy, đại tiểu tiện, hoặc đến chỗ không sạch sẽ đều nên niệm thầm. Niệm thầm có cùng một công đức [như niệm ra tiếng], niệm ra tiếng không hợp lễ. Bất luận niệm lớn tiếng hay niệm nhỏ tiếng, niệm Kim Cang (niệm có tiếng nhưng người bên cạnh không nghe được), niệm thầm trong tâm, đều phải niệm cho rõ ràng rành rẽ trong tâm, miệng niệm cho rõ ràng rành rẽ, tai nghe cho rõ ràng rành rẽ. Như thế thì tâm chẳng rong ruổi theo bên ngoài, vọng tưởng dần dần dứt, Phật niệm dần dần thuần, công đức rất lớn!
Người niệm Phật phải hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng (tức thầy dạy ta và những vị đạo đức), từ tâm không giết (nên ăn chay trường, hoặc ăn chay kỳ. Nếu chưa dứt được ăn mặn thì đừng đích thân giết), tu Thập Thiện nghiệp (tức là thân chẳng làm chuyện sát sanh, trộm cắp, tà dâm; miệng chẳng nói dối, thêu dệt, nói đôi chiều, nói lời ác; tâm chẳng khởi niệm tham dục, nóng giận, ngu si). Lại còn phải cha nhân từ, con hiếu thuận, anh nhường, em kính, chồng hòa, vợ thuận, chủ nhân từ, tớ trung thành, nghiêm túc tận hết bổn phận của chính mình. Chẳng cần biết người khác có trọn hết bổn phận đối với ta hay không, ta phải luôn trọn hết phận ta. Nếu có thể đối với gia đình và xã hội trọn hết tình nghĩa, tận hết bổn phận thì gọi là “thiện nhân”.
Thiện nhân niệm Phật cầu sanh Tây Phương chắc chắn khi lâm chung liền được vãng sanh, bởi tâm hợp với Phật, nên cảm được Phật từ tiếp dẫn. Nếu tuy thường niệmPhật, nhưng tâm chẳng nương theo đạo, hoặc đối với cha mẹ, anh em, thê thiếp, con cái, bạn bè, xóm làng chẳng thể tận hết bổn phận thì tâm đã trái nghịch Phật, khó thể vãng sanh! Do tự tâm phát sanh chướng ngại, Phật cũng không có cách nào rủ lòng từ tiếp dẫn được! Lại phải nên khuyên cha mẹ, anh em, chị em, thể thiếp, con cái, xóm làng, thân hữu đều cùng thường niệm “Nam-Mô A Di Đà Phật” và “Nam-Mô Quán Thế Âm Bồ Tát” (mỗi ngày nếu niệm một vạn câu Phật hiệu thì niệm năm ngàn câu Quán Âm, nhiều hay ít chiếu theo đây mà gia giảm).
Bởi chuyện này lợi ích rất lớn, nỡ nào để người sanh ra ta và quyến thuộc của ta cũng như thân hữu chẳng được hưởng lợi ích này hay sao? Huống chi hiện tại đang là lúc cõi đời hoạn nạn lớn lao, tai họa xảy đến không cách gì đối phó được. Nếu thường niệm Phật và niệm Quán Âm, chắc chắn được Phật từ che chở, gặp dữ hóa lành. Dẫu không tai nạn cũng được nghiệp tiêu, trí rạng, chướng tận, phước tăng. Huống chi, khuyên người niệm Phật cầu sanh Tây Phương chính là thành tựu cho kẻ phàm phu thành Phật, công đức rất lớn! Dùng công đức này hồi hướng vãng sanh, ắt được mãn nguyện. 
Phàm tụng kinh, trì chú, lễ bái, sám hối và cứu tai nạn, giúp kẻ nghèo, mọi thứ công đức từ thiện đều phải hồi hướng vãng sanh Tây Phương, chớ nên cầu phước báo nhân - thiên trong đời sau. Hễ có tâm ấy sẽ chẳng có phần vãng sanh! Hễ sanh tử chưa giải quyết xong, phước càng lớn ắt nghiệp càng nặng. Hễ sanh lần nữa, khó khỏi đọa trong ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Nếu muốn lại được thân người, lại được gặp pháp môn Tịnh Độ liễu thoát ngay trong một đời, khó như lên trời! Phật dạy người niệm Phật cầu sanh Tây Phương là để con người liễu thoát sanh tử ngay trong đời này. Nếu cầu phước báo nhân - thiên đời sau thì là trái nghịch lời Phật dạy, giống như đem một viên bảo châu vô giá trong khắp cõi đời đổi lấy một thẻ đường để ăn, chẳng đáng tiếc ư? Người ngu niệm Phật chẳng cầu sanh Tây Phương, cầu phước báo nhân thiên đời sau cũng chẳng khác gì!
Người niệm Phật chẳng được lạm tu con đường tham cứu của nhà Thiền, bởi người tham cứu chẳng chú trọng nơi tín nguyện cầu sanh; dẫu có niệm Phật cũng chỉ chú trọng khán câu “người niệm Phật là ai?” để cầu khai ngộ mà thôi! Nếu sanh Tây Phương thì không một ai chẳng khai ngộ! Nếu khai ngộ mà Hoặc nghiệp hết sạch thì có thể liễu sanh tử. Nếu Hoặc nghiệp chưa hết sẽ chẳng thể cậy vào Tự Lực để liễu sanh tử. Lại do không có tín nguyện nên chẳng thể cậy vào Phật Lực để liễu sanh tử. Tự Lực lẫn Phật Lực cả hai đều không nhờ cậy được, muốn thoát luân hồi há có được chăng? Phải biết: Pháp Thân Bồ Tát lúc chưa thành Phật đều phải cậy vào oai lực của Phật, huống chi nghiệp lực phàm phu phí công bàn chuyện Tự Lực, chẳng cậy Phật Lực ư? Lời lẽ tuy cao siêu, nhưng hạnh thật hèn tệ. Phật Lực, Tự Lực lớn - nhỏ, nào phải chỉ khác biệt như trời với vực! Nguyện đồng nhân đều hiểu nghĩa này... 
MỤC LỤC:
QUYỂN THƯỢNG
Những Lời Tâm Huyết
Tổ Sư Ấn Quang Dạy Phải Chú Trọng Chí Thành Cung Kính
Tổ Sư Ấn Quang Dạy Mười Điều Cung Kính Khi Đọc Sách
Kệ Tu Trì
Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên (Quyển Thượng) - Thư Từ
- Một Lá Thư Gửi Khắp
- Thư Gởi Cư Sĩ Quách Trang Ngô
- Trả Lời Thư Cư Sĩ Châu Mạnh Do Hỏi Về Bốn Câu “Sắc Bất Dị Không” Trong Tâm Kinh
- ……
- ……
QUYỂN HẠ
- Tự
- Lời Tựa Cho Sách Vãn Hồi Thế Đạo Nhân Tâm Cùng Trị Cả Gốc Lẫn Ngọn
- Lời Tựa Tái Bản Tịnh Độ Ngũ Kinh
- Lời Tựa Trình Bày Duyên Khởi Của Việc In Kèm Phẩm Tịnh Hạnh Của Kinh Hoa Nghiêm Vào Sau Tịnh Độ Ngũ Kinh
- …….
- …….
- Ký
- Bi Ký Trình Bày Sự Thần Dị Của Suối Bát Công Đức Thuộc Tam Thánh Thiền Viện Núi Phổ Đà
- Bài Ký Về Chuyện Xây Dựng Đại Điện Của Đạo Tràng Chuyên Tu Tịnh Nghiệp Tại Núi Linh Nham
- Bi Ký Về Việc Chùa Linh Nham Vĩnh Viễn Trở Thành Đạo Tràng Thập Phương Chuyên Tu Tịnh Độ Và Công Đức Xây Dựng Lần Này
- ……
- ……
- Tụng Tán
- Phật Bảo Tán
- Pháp Bảo Tán
- Tăng Bảo Tán
- Tán Dương Tượng Phật Dược Sư
- Dược Sư Phật Kệ
- ……
- ……
- Những Bài Viết Khác
- Lâm Chung Tam Đại Yếu (Ba Điều Quang Trọng Nhất Lúc Lâm Chung)
- Tịnh Độ Chỉ Yếu (Chỉ Bày Những Điều Trọng Yếu Trong Pháp Môn Tịnh Độ)
- Trình Bày Ý Nghĩa Ẩn Kín Nơi Cuốn Hành Dư Nhật Khóa Của Lâm Văn Trung Công
- Nêu Tỏ Ý Nghĩa Giáo Dục Trong Gia Đình Là Căn Bản Khiến Cho Thiên Hạ Thái Bình
- ……
- ……
- Câu Đối
- Câu Đối Tán Dương Phật Thích Ca
- Câu Đối Tán Dương A Di Đà Phật
- Câu Đối Tán Dương Phật Thích Ca
- Câu Đối Tán Dương Phật Di Đà
- Câu Đối Tán Dương Phật Di Lặc
- ……
- ……
- Phụ Lục
- Niệm Phật Nhiếp Tâm Kệ
- Bài Ký Và Bài Tụng Về Chuyện Cư Sĩ Hứa Chỉ Tịnh Vãng Sanh
- So Sánh Sự Tổn Hại Và Lợi Ích Giữa Được Và Không Được Trợ Niệm
- Người Tu Tịnh Nghiệp Ăn Chay Niệm Phật Trong Xử Sự Thường Nhật Chuyện Gì Cũng Phải Rất Phù Hợp Với Tịnh Hạnh Thì Mới Có Thể Vãng Sanh.
- ……
- ……
HỒI HƯỚNG
10 CÔNG ĐỨC ẤN TỐNG KINH PHẬT
ẤN QUANG TỔ SƯ DẠY