TRÍCH “KHUYÊN NGƯỜI NIỆM PHẬT CẦU SINH TỊNH ĐỘ”:
Tiên sinh Chu An Sĩ, người Côn Sơn, trước tác rất nhiều sách. Tôi nhờ đọc qua các sách của tiên sinh mà được lợi ích sâu xa vô vàn. Thuở xưa đức Thế Tôn vì muốn nghe chỉ nửa bài kệ mà xả thân cho quỷ la-sát. Xét theo đó thì ân đức quá lớn lao của tiên sinh, tôi quả thật không biết làm sao báo đáp. Uông Thạch Tâm vẽ tượng tiên sinh, nhờ người viết lời đề tượng, tôi xem qua thật hết sức kinh ngạc vui mừng, những lúc có thời gian vẫn thường chiêm ngưỡng lễ bái. Nay cung kính mượn bốn câu hai mươi vần, tuy không đủ để nói về tiên sinh dù trong muôn một, nhưng chỉ mong thúc đẩy rộng truyền ý nguyện của tiên sinh khi viết sách, cũng là để kết duyên vãng sinh Tịnh Độ. Chắc rằng tiên sinh ngự giữa đài sen nơi Cực Lạc cũng nhân việc này mà mỉm cười thỏa nguyện.
Ngày mồng 2 tháng 12 năm Canh Tý – Niên hiệu Đạo Quang.
Trương Nhĩ Đán kính đề.
Mười Điều Thù Thắng Ở Cõi Tây Phương - Hóa sinh từ hoa sen, khác biệt với cõi Ta-bà sinh trưởng từ bào thai.
- Sinh ra liền được tướng hảo đoan nghiêm, khác biệt với cõi Ta-bà thọ thân xương thịt ô uế.
- Mặt đất khắp nơi bằng vàng ròng, khác biệt với cõi Ta-bà đất cát dơ nhớp.
- Y phục và thức ăn tự nhiên hóa hiện, khác biệt với cõi Ta-bà thường chịu khổ đói rét.
- Cung điện tùy ý hiện ra, khác biệt với cõi Ta-bà phải vất vả xây dựng.
- Tùy ý đi lại giữa hư không, khác biệt với cõi Ta-bà thân như túi da chứa đầy bệnh khổ.
- Được sống chung cùng bạn lành yêu kính, khác biệt với cõi Ta-bà oan gia thường đối mặt.
- Tuổi thọ dài lâu không thể suy lường, khác biệt với cõi Ta-bà sống chết ngắn ngủi trong gang tấc.
- Vĩnh viễn không còn thối chuyển, khác biệt với cõi Ta-bà nghiệp duyên che chướng đường tu.
- Được thọ ký sẽ thành Phật, khác biệt với cõi Ta-bà nhiều lần luân chuyển trong ba đường ác.
- Từ điều thứ nhất đến điều thứ năm, so sánh giữa ô uế với thanh tịnh, khác biệt rất xa một trời một vực.
- Từ điều thứ nhất đến điều thứ tư và từ điều thứ sáu đến điều thứ mười, so sánh giữa khổ não với an vui, khác biệt rất xa một trời một vực.
- Các điều thứ tư, thứ năm, chứ chín và thứ mười, so sánh giữa đời sống dễ dàng với khó khăn, khác biệt rất xa một trời một vực.
Đại Sư Liên Trì Rộng Khuyên Mọi Người Niệm Phật
- Nếu người giàu sang, hiện được mọi sự thọ dụng, nhân đó rất nên niệm Phật.
- Nếu người nghèo khó, gia đình suy vi khổ lụy, nhân đó rất nên niệm Phật.
- Nếu người có con, tông đường đã có thể phó thác, nhân đó rất nên niệm Phật.
- Nếu người không có con, sống cô độc không ràng buộc, nhân đó rất nên niệm Phật.
- Nếu người có con hiếu, an ổn được sự phụng dưỡng, nhân đó rất nên niệm Phật.
- Nếu người có con ngỗ nghịch, không sinh lòng thương yêu lưu luyến, nhân đó rất nên niệm Phật.
- Nếu người được thân thể khỏe mạnh không bệnh tật, nhân đó rất nên niệm Phật.
- Nếu người mắc phải bệnh tật, mạng sống mong manh trong sớm tối, nhân đó rất nên niệm Phật.
- Nếu người cô quả, sống đơn chiếc không ràng buộc, nhân đó rất nên niệm Phật.
- Nếu người bị nạn, gặp cảnh cùng khốn cùng, nhân đó rất nên niệm Phật.
- Nếu người già yếu, mạng sống chẳng còn bao lâu, nhân đó rất nên niệm Phật.
- Nếu người tuổi trẻ, tinh thần sáng suốt nhanh nhạy, nhân đó rất nên niệm Phật.
- Nếu người sống an nhàn, trong lòng không bị điều gì quấy nhiễu, nhân đó rất nên niệm Phật.
- Nếu người bận rộn, thỉnh thoảng mới có một được đôi khi rảnh rỗi, nhân đó rất nên niệm Phật.
- Nếu là người xuất gia, sống vượt ngoài thế sự, nhân đó rất nên niệm Phật.
- Nếu là người tại gia, rõ biết ba cõi như căn nhà đang cháy cần phải thoát ra, nhân đó rất nên niệm Phật.
- Nếu là người thông minh trí tuệ, hiểu thấu ý nghĩa kinh điển, nhân đó rất nên niệm Phật.
- Nếu là người ngu si đần độn, không có được bất kỳ khả năng gì khác, nhân đó rất nên niệm Phật.
- Nếu là người tu tập pháp thiền, ngộ ra được tất cả các pháp đều do tâm tạo, nhân đó rất nên niệm Phật.
- Nếu là người tu theo đạo tiên, câu được sống lâu muôn tuổi, nhân đó rất nên niệm Phật…

TRÍCH “KHUYÊN NGƯỜI BỎ SỰ THAM DỤC”:
Lời Tựa: Vào khoảng cuối mùa hạ năm Tân Dậu, tôi và Chu tiên sinh cùng ngồi hóng mát trong một cái đình nhỏ ven hồ sen, tay nắm tay trao đổi tâm tình, luận bàn những việc được mất trong đời từ xưa đến nay, nhân đó đề cập đến những lẽ thiện ác báo ứng, Chu tiên sinh bỗng xúc động thở dài than rằng: “Sắc dục làm mê hoặc con người thật quá lắm, đến bậc hiền trí còn không thoát khỏi, huống chi là những người khác”! Tôi nghe lời ấy thì lặng thinh hồi lâu, suy nghĩ đến việc (dùng lời nói) khuyên người trong một lúc sao bằng (viết sách) khuyên người, (lưu truyền đến) muôn đời sau, liền đem việc muốn biên soạn sạch này ra thỉnh ý tiên sinh.
Chu tiên sinh nói: “Tôi lo việc khắc in sách Vạn Thiện Tiên Tư đã gần hai năm rồi vẫn chưa xong, đâu dám nghĩ đến việc khác”. Tôi nói: “Chỉ cần là việc lợi ích cho muôn người, tôi đây không tiếc (đóng góp) tiền bạc”. Chu tiên sinh nghe vậy rất hoan hỷ, liền phát tâm biên soạn sách này. Ngày lại ngày qua, thoáng chốc đến mùa thu năm nay, vào ngày Canh Ngọ trong tháng bảy, tôi tìm đến nhắc lại lời nói năm xưa. Tiên sinh liền ngay trong ngày ấy đốt hương trang nghiêm, rửa tay sạch sẽ, phóng bút viết ra.
Tiên sinh biên soạn sách này, mỗi khi nêu ra một phần nghị luận đều cứu xét thật rõ trong nguyên bản, để giúp cho người đọc có thể nhận hiểu rõ ràng, lại khảo cứu rộng thêm đến cả những sách vở, kinh điển của Nho, Lão, Phật, lấy đó làm chỗ tham khảo (để bổ sung) đầy đủ. Tiên sinh chịu khó nhọc, đêm ngủ không yên giấc, ngày ăn chẳng thấy ngon, (để hết cả tâm ý vào công việc). Bản thảo viết ra mất ba tháng mới hoàn tất, tôi liền tuyển chọn thợ khéo khắc bản in để có thể lưu truyền rộng rãi.
Chỉ mong sao những người đọc được sách này có thể xem đây như một tiếng chuông trong đêm khuya thanh vắng (giúp người tỉnh ngộ), như lương thực lúc đói thiếu (giúp người no lòng), ngày ngày đặt sách ngay nơi thuận tiện để thường xem đi xem lại, ắt trí tuệ sẽ được khai mở, phước duyên tự nhiên vững chắc sâu dày. Đến như những chỗ dò tận nguồn cội, hiển lộ nghĩa uyên áo của sách này, rực rỡ sáng tỏ muôn phần, thì đương thời ắt không thiếu những bậc thức giả sáng suốt (tự nhân biết), tôi đâu cần phải ngợi khen xưng tán.
Cô Tô – Cố Ngạc Thanh Lâm thị kinh đề.
Đức Hạnh Đáng Khâm Phục
Vào đời Nguyên, Tần Chiêu là người Dương Châu, vào độ tuổi đôi mươi có dịp đi chơi đến kinh thành. Lúc lên thuyền rồi, có người bạn họ Đặng mang rượu đến đưa tiễn. Đang lúc cả hai cùng nâng ly, bỗng có một cô gái tuyệt đẹp bước đến. Người bạn họ Đặng liền bảo cô ấy thi lễ với Tần Chiêu, rồi nói: “Cô gái này nguyên là nô tỳ, có vị đại nhân ở một bộ (nơi kinh thành) đã bỏ tiền mua về làm thiếp. Nhân tiện chuyến đi này của anh, xin giúp đưa cô ấy đến (chỗ ông ta ở) kinh thành”.
Tần Chiêu ba lần từ chối không nhận, họ Đặng giận đổi sắc mặt, nói: “Sao anh lại cố chấp đến thế? Ví như không tự giữ mình được thì cứ xem như cô gái này sẽ về làm vợ anh, bất quá chỉ mất hai ngàn năm trăm quan tiền mà thôi”. “Tần Chiêu bất đắc dĩ phải nhận lời (đưa cô gái đi cùng). Khi ấy tiết trời nóng bức, ban đêm nhiều muỗi, cô gái khổ sở không ngủ được vì không có mùng. Tần Chiêu liền bảo cô vào ngủ chung mùng với mình. Hành trình theo đường sông phải mất mười ngày như vậy mới đến kinh thành.
Tần Chiêu gửi cô gái cho bà chủ quán trọ, rồi tự mình mang thư của người bạn họ Đặng đến cho vị đại nhân kia. Ông ta dọ hỏi: “Anh đi như thế, có người nhà cùng đi chăng?” Tần Chiêu đáp: “Không, chỉ có mỗi mình tôi thôi”. Ông ta nghe vậy bỗng nhiên biến sắc, lộ vẻ giận ra mặt, nhưng vì có thư của họ Đặng nên phải miễn cưỡng cho người đón cô gái kia về nhà. Đêm ấy, ông ta mới biết cô gái chưa từng thất thân, trong lòng tự thấy hết sức xấu hổ. Hôm sau lập tức viết thư cho họ Đặng, hết lời khen ngợi đức hạnh của Tần Chiêu. Ông lại đến thăm Tần Chiêu, nói: “Ông quả là người quân tử đức độ cao vời, xưa nay ít có. Hôm qua tôi hết sức nghi ngờ (việc ông đi chung thuyền nhiều ngày với người thiếp của tôi), quả thật là đã lấy bụng tiểu nhân đo lòng quân tử. Tôi lấy làm hổ thẹn vô cùng”.
Lời Bàn: Tâm địa của Tần Chiêu, nếu chẳng phải hoàn toàn không bị dục tính của con người chi phối, chỉ một mực vâng theo lẽ trời, thì khi cùng với một cô gái tuyệt đẹp như thế ăn cùng mâm, ngủ cùng chiếu trong suốt mười ngày dài, làm sao có thể không khởi lên chuyện dục tình? Tần Chiêu như thế cố nhiên đã là một bậc quân tử đức hạnh, nhưng cô gái kia cũng là một trang thục nữ trong trắng thanh cao. Đức hạnh cao vời và tấm lòng trinh trắng thanh cao ấy thật khiến cho người ta phải hết sức khâm phục ngưỡng mộ. Vì thế nên cho khắc in thêm vào đây để lưu truyền rộng rãi.
Thích Ấn Quang kính ghi 
TRÍCH “KHUYÊN NGƯỜI BỎ SỰ GIẾT HẠI”:
Lời Nói Đầu: Giáo huấn của các bậc thánh nhân, tuy nói rằng đại thể đều như nhau, nhưng pháp Phật quả thật vượt trội hơn hết. Không cần phải xét đến ý nghĩa sâu xa uyên náo, chỉ ngay nơi việc đức Phật chế định giới không giết hại đã có thể khẳng định chắc chắn ngài là bậc thánh của các vị thánh, không ai có thể sánh kịp. Đã là con người thì dù sáng suốt hay ngu muội, ai ai cũng xem việc bị giết hại là nỗi khổ lớn nhất, mà được duy trì sự sống là ân đức lớn nhất. Cho nên, luận về tội ác nặng nề thì không gì hơn tội giết hại, mà phước báu lớn nhất thì không gì hơn ngăn cản việc giết hại.
Hết thảy loài vật đều tham sống sợ chết, tìm chỗ an ổn, tránh chỗ nguy hại, so với tâm lý con người không khác! Thế mà những từ ngữ nói đến sự giết hại loài vật để phục vụ việc ăn uống lại thấy lẫn lộn dẫy đầy trong kinh thư, sách truyện của Nho gia, khiến người ta xem mãi cũng thành quen, rồi cho là việc đương nhiên phải vậy. Nếu không có bậc Đại Hùng rủ lòng thương xót chúng sinh mà trước tiên chế định giới cấm, thống thiết răn dạy, thì đâu có ai biết đến ý nghĩa “hết thảy chúng sinh đều sẵn tánh linh, hết thảy vạn vật đều đồng tánh thể”?
Nay các nhà Nho cũng nói đến việc thương yêu loài vật, nhưng tôi không hiểu nổi những việc như cắt xẻ, băm vằm… sao có thể nói là thương yêu được? Sách Nho dạy rằng: “chặt một cái cây, giết một con thú mà không đúng lúc, ấy là bất hiếu”. Nhưng họ thật không biết rằng, hòa khí an ổn vẫn luôn tồn tại, vốn trong vũ trụ này không có bất kỳ thời điểm nào thích hợp cho việc giết hại cả! Mỗi khi có nạn hạn hán, lụt lội, triều đình cũng biết cấm tuyệt sự giết mổ để mong cảm động lòng trời, nhưng lúc bình thường lại buông thả khích lệ sự giết chóc, xâm hại hòa khí của đất trời, gieo mầm tai ương, cứ để yên như thế mà chẳng nói gì đến, tôi thật không biết phải hiểu điều ấy như thế nào?...
Những Lời Khuyên Về Nhân Quả - Phần Thượng:
Lời Khuyên Nên Đọc Sách Này: Lòng nhân đứng đầu trong ngũ thường, đức từ là trước hết trong muôn đức. Lớn lao tha y chỗ luận thuyết của Tam giáo, tuy dùng lời khác biệt nhưng cùng nói lên một lẽ: “con người ai ai cũng yêu tiếc mạng sống, muôn vật loài nào cũng mong muốn được sinh tồn”. Con gà thấy người làm bếp đến bắt thì hốt hoảng bay đậu lên cao để trốn tránh, con lợn nghe đồ tể ngã giá mua xong thì hai dòng nước mắt tuôn trào như suối. Cái chết sắp đến chúng đều biết rõ, chỉ vì miệng không thể nói ra lời. Bỗng dưng phải chịu nỗi thống khổ vì đao thớt băm vằm, ruột đứt từng đoạn khi mạng sống còn chưa dứt hẳn, dao sắc ngàn lượt cắt xẻ, nước sôi đun nấu trăm lần.
Đem thân xác muôn loài cho vào cảnh dầu sôi lửa bỏng, lại lấy đó làm món ngon vật lạ trên bàn ăn của mình. Việc làm như thế nếu bảo là vô tội thì liệu có còn gì phải e sợ trời cao? Xưa nay những kẻ giết hại đều phải chịu xoay vòng báo ứng không sai. Từ khi tôi vừa mới trưởng thành, mắt nhìn thấy (những cảnh giết hại) sinh lòng thương xót vô cùng, liền thu thập sắp xếp những truyện tích xưa (khuyên răn việc giết hại), đến nay đã được một số rất nhiều. Tôi đã lập lời thề cứu khổ Ba đường, nuôi chí nguyện ngày thêm kiên cố, (nên mới viết những truyện này ra để lưu hành khuyên người). Khi đặt bút xuống lòng càng thêm thương cảm, Mỗi chữ viết ra mỗi nghẹn ngào. (Lúc viết xong) muốn khắc bản in, nhưng phận nghèo không đủ sức mà việc quyên góp cũng không được dễ dàng, nên đành trì trệ mãi ba, bốn năm qua, nay mới in xong để lưu hành. Xin có lời kính khuyên các bậc hiền giả thông đạt, nên lưu tâm đọc qua sách này… 
TRÍCH “KHUYÊN NGƯỜI TIN SÂU NHÂN QUẢ”:
Quyển Hạ: Pháp luật trừng trị tội nhân, không có hình phạt nào nặng hơn tội chết; cha mẹ thương yêu con cái cũng không làm gì khác hơn là ban cho và nuôi dưỡng chu toàn sự sống. Cho nên có thể biết rằng, việc xấu ác nhất chính là giết hại, mà việc hiền thiện nhất chính là cứu mạng phóng sinh. Hãy xem khi các con thú bị đuổi bắt, chúng cũng kinh sợ trốn chạy, phát tiếng kêu la thảm thiết, cố sức vượt rào leo tường để mong chạy thoát. Nếu đem so với con người chúng ta, gặp khi bị lệnh vua bắt bớ đuổi giết, cha mẹ kinh hoàng chẳng biết phải làm sao, vợ con gia quyến bị đẩy vào cảnh chết không đường thoát, nỗi hãi hùng kinh sợ ấy nào có khác gì nhau?
Lại xem khi con vật bị giết hại, như lúc cắt tiết một con gà, cả bầy gà kinh hãi kêu la, mổ thịt một con lợn, cả đàn lợn buồn bã bỏ ăn. Nếu đem so với con người chúng ta, gặp lúc loạn lạc giặc cướp lộng hành, trước mắt nhìn thấy cha mẹ bị giết hại, vợ con bị bắt bớ đưa đi, tình cảnh bi thương ấy cũng tương đồng không khác. Lại hãy xem khi con vật bị cắt xẻ giết mổ, ruột gan phơi ra mà nơi miệng còn thều thào hơi thở, hoặc cổ họng đã bị cắt đứt mà đôi mắt vẫn còn mở to chưa kịp nhắm. Nếu đem so với con người chúng ta, lúc lâm chung đớn đau thống khổ, toàn thân bất động, chỉ biết đưa mắt nhìn, đành cam tâm bất lực nào có khác chi nhau?
Nếu trong lúc ấy mà nhẫn tâm giết hại, thì nỗi oán hận của con vật bị giết biết nói sao cho hết? Nếu trong lúc ấy lại có người bỏ tiền mua để cứu mạng thả ra, thì sự cảm kích tri ân cũng nói sao cho hết? Việc phóng sinh không nên làm theo kỳ hạn thường xuyên nhất định, e rằng có người biết được ngày tháng ta bán. Việc phóng sinh nên sẽ cố sức đuổi bắt để mang đến bán. Việc phóng sinh cũng không nên chọn một địa điểm cố định, e rằng có người biết được sẽ đợi sau khi ta phóng sinh vật mạng rồi tìm cách bắt chúng lại. Phóng sinh cũng không giới hạn đối với một loài vật nào, dù vật mạng lớn nhỏ cũng đều nên cứu sống.
Các hội phóng sinh ở vùng Côn Lôn nơi tôi sống, chỉ có am Thanh Lương là làm tốt nhất, do từ khi khởi lập có vị thiện hữu trước hết đã bỏ ra một số tiền lớn, đưa vào ký gửi lấy lãi, mỗi tháng dùng tiền lãi ấy vào việc phóng sinh. Mỗi lần tổ chức phóng sinh, cứ khoảng 4,5 ngày trước đó liền có báo cáo gửi đến từng hội viên để thông báo số tiền sử dụng, đến kỳ hạn các hội viên cùng chia nhau quyên góp vào cho đủ số đã chi ra, hoàn toàn không dựa vào số tiền ký gửi sinh lợi. Nhờ cách ấy mà có thể hoạt động được lâu dài. Vào ngày mở hội phóng sinh, mỗi người đều cung kính đọc tụng 5 quyển kinh Hoa Nghiêm, chi phí hương hoa trà nước có ba người chia nhau gánh chịu. Ấy là nhờ tất cả hội viên đều đồng tâm hiệp lực nên hoạt động của hội mới được thành công dễ dàng, có thể làm khuôn mẫu cho những nơi khác học theo… 
Quyển Thượng: An Sĩ Toàn Thư là một tập sách khuyến thiện được Đại sư Ấn Quang nhiều lần khen ngợi. Đích thân ngài cũng đã vận động, tổ chức việc in ấn lưu hành, số lượng lên đến hàng vạn quyển. Vì thế, lần đầu tiên tiếp xúc với bộ sách này bằng Hán Văn, bản thân tôi đã không khỏi khởi sinh một vài băn khoăn, nghi vấn. Vì sao lại băn khoăn, nghi vấn? Vì khi nhìn qua tổng mục sách này, nổi bật lên là phần Âm chất văn quảng nghĩa, vốn dựa vào bài văn Âm chất của Văn Xương Đế Quân để giảng rộng. Các phần còn lại là Tây Quy Trực Chỉ, Vạn Thiện Tiên Tư và Dục Hải Hồi Cuồng có thể tạm chưa bàn đến, nhưng riêng về bài văn Âm Chất thì dường như không nằm trong giáo pháp của đức Phật.
Văn Xương Đế Quân là một nhân vật hư hư thật thật, tuy một phần truyền tích về ông có thể tạm cho là thật, nhưng lại có vô số điều được thêu dệt thêm chung quanh hình ảnh của ông, mà phần lớn đều là những kiểu niềm tin mông muội, thiếu trí tuệ, nếu không muốn nói là mê tín. Như vậy, những lời truyền lại của một nhân vật như thế liệu có đáng để người Phật tử phải lưu tâm nghiên tầm học hỏi hay chăng? Một tập sách như vậy liệu có đáng để lưu hành rộng rãi hay không?...
Nhưng Đại sư Ấn Quang vốn là bậc long tượng trong Phật giáo. Cuộc đời và đạo nghiệp của ngài quá đủ để chúng ta đặt niềm tin vào những lời khuyên của ngài. Đại sư nói về sách An Sĩ Toàn Thư và soạn giả là tiên sinh Chu An Sĩ như sau: “…quả thật là một quyển kỳ thư khuyến thiện bậc nhất trong thiên hạ, nếu so với những quyển sách khuyến thiện tầm thường khác, há có thể sánh cùng được sao? Lòng tôi vẫn tin chắc rằng tiên sinh hẳn là bậc Bồ Tát theo bản nguyện mà hiện thân cư sĩ để thuyết pháp độ sinh”. (trích lời tựa của Đại sư Ấn Quang). 
MỤC LỤC:
KHUYÊN NGƯỜI NIỆM PHẬT CẦU SINH TỊNH ĐỘ - Xưng Tán Hình Tượng
- Tiểu Sử Tiên Sinh Chu An Sĩ
- Lời Dẫn Về Việc Khắc Bản In Lại Sách Tây Quy Trực Chỉ
- Quyển Một: Cương Yếu Của Pháp Môn Tịnh Độ
- Quyển Hai: Chỉ Đường Cho Kẻ Còn Nghi
- Quyển Ba: Bàn Rộng Để Khơi Mở Và Củng Cố Niềm Tin
- Quyển Bốn: Lược Kể Một Số Chuyện Vãng Sinh
- Phụ Đính: Bài Văn Khuyên Phát Tâm Bồ-Đề
KHUYÊN NGƯỜI BỎ SỰ THAM DỤC
- Lời Tựa
- Đức Hạnh Đáng Khâm Phục
- Thể Lệ Chung Khi Biên Soạn Sách Này
- Kinh Sách Tham Khảo
- Quyển Một: Những Gương Tốt Xấu Xưa Nay
- Quyển Hai: Phương Pháp Tu Tập
- Quyển Ba: Giải Trừ Nghi Vấn
- Lời Bạt
- Thuật Ngữ Phật Học Trong Sách Này
- Bài Tụng Bất Tịnh Quán Của Pháp Sư Tỉnh Am
- Bài Tụng Niệm Xứ Của Pháp Sư Tỉnh Am
KHUYÊN NGƯỜI BỎ SỰ GIẾT HẠI
- Quyển Một: Những Lời Khuyên Về Nhân Quả - Phần Thượng
- Quyển Hai: Những Lời Khuyên Về Nhân Quả - Phần Hạ
- Quyển Ba: Biện Giải Những Điều Nghi Hoặc
- Quyển Bốn: Những Điều Tinh Tế Nên Thận Trọng Lưu Ý
- Lời Bạt
- Phụ Đính
KHUYÊN NGƯỜI TIN SÂU NHÂN QUẢ - QUYỂN HẠ
- Xây Dựng, Tu Sửa Chùa Chiền, Tu Viện
- Giúp Thuốc Thang Cứu Người Bệnh Khổ
- Giúp Nước Uống Giải Cơn Khát Cho Người
- Hoặc Bỏ Tiền Mua Vật Sống Phóng Sinh
- Hoặc Ăn Chay Từ Bỏ Sự Giết Hại
- Cất Bước Phải Quan Sát, Không Giẫm Đạp Côn Trùng
- Không Đốt Lửa Gây Cháy Rừng, Cháy Núi
- Đêm Tối Giúp Người Đi Đường Có Đèn Soi Sáng
- Sông Rộng Giúp Thuyền Bè Đưa Người Qua Lại
…………….
…………….
KHUYÊN NGƯỜI TIN SÂU NHÂN QUẢ - QUYỂN THƯỢNG
- Lời Tựa Nhân Việc Khắc Bản In Lại Sách An Sĩ Toàn Thư
- Lời Tựa Viết Năm Mậu Thân (1908)
- Lời Tựa Của Trương Thủ Ân
- Lời Tựa Đầu Tiên Của Sách Giảng Rộng Bài Văn Âm Chất
- Bài Văn Âm Chất Của Văn Xương Đế Quân
- Phần Bổ Khuyết
- Giảng Rộng Bài Văn Âm Chất Quyển Thượng
- Phụ Đính 5 Mục Hỏi Đáp Về Luân Hồi
- Chưa Từng Bạo Ngược Với Dân, Tàn Khốc Với Thuộc Cấp
- Cứu Người Lúc Nguy Nan
- Giúp Người Khi Khẩn Thiết
- Thương Xót Người Cô Độc