ĐỨC PHẬT VÀ PHẬT PHÁP - NARADA MAHA THERATác Giả: Đại Đức Narada Maha Thera Dịch: Phạm Kim Khánh NXB: Hồng Đức Số Trang: 540 Trang Hình Thức: Bìa Mềm Có Tay Gập Khổ: 15x24cm Năm XB: 2019 Độ Dày: 2,5cmDPPPSÁCH GIÁO LÝ90.000đSố lượng: 1000010 Quyển
Tác Giả: Đại Đức Narada Maha Thera Dịch: Phạm Kim Khánh NXB: Hồng Đức Số Trang: 540 Trang Hình Thức: Bìa Mềm Có Tay Gập Khổ: 15x24cm Năm XB: 2019 Độ Dày: 2,5cm
LỜI TỰA Quyển "The Buddha and His Teachings" (Đức Phật và Phật Pháp) được ấn hành tại Sài gòn năm 1964 nhờ sự phát tâm bố thí của liệt vị Phật tử Việt Nam. Đạo hữu Phạm Kim Khánh, pháp danh Sunanda, đã dày công phiên dịch thiên khái luận nhỏ bé này ra tiếng mẹ đẻ với mục đích đáp lại phần nào lòng mong ước của những ai muốn hiểu Đức Phật và giáo lý của Ngài. Công đức này được hàng Phật tử Việt Nam ghi nhận.Trong hiện tình, nước Việt Nam không mấy được yên ổn. Bao nhiêu người đang đau khổ, về vật chất cũng như tinh thần. Không khí căng thẳng này quả không thích hợp với việc làm có tánh cách tinh thần và đạo đức.
Giữa hoàn cảnh một nước Việt Nam đang trải qua giai đoạn cực kỳ đau thương do chiến tranh gây nên, dịch giả đã cố gắng nhen nhúm thì giờ và lắng tâm thanh tịnh để thực hiện công tác từ ái này với lòng ước mong quảng bá giáo huấn của Đức Thượng Sư trên đất Việt. Đó là việc làm đáng được ngợi khen. Do oai lực của Pháp thí này, xin chú nguyện hoà bình sớm vãn hồi trên toàn cõi Việt Nam.Thưa quý vị đạo hữu, quý vị được kể là hàng Phật tử trung kiên và thuần thành không kém bất luận dân tộc nào trong các dân tộc theo Phật Giáo. Lòng dũng cảm của quý vị trước bao nhiêu nghịch cảnh đáng được tán tụng. Mặc dầu tâm đạo rất nhiệt thành, là hạng người trí thức, quý vị luôn luôn dùng trí phán xét, suy luận trước khi chấp nhận điều gì.
Xin quý vị ghi nhớ, cũng như nhiều dân tộc Phật giáo khác ở Á Châu, dân tộc Việt Nam đã trưởng thành trong tổ ấm của Phật Giáo, di sản tinh thần vô giá của quý vị.Dầu theo Bắc Tông hay Nam Tông, tất cả quý vị đều là giáo đồ nhiệt thành, là đàn con chung của Đức Từ Phụ Gotama. Giáo lý duy nhất của Ngài căn cứ trên Tứ Diệu Đế, hay Bốn Chân Lý Thâm Diệu căn bản, là điều mà không có người Phật tử nào bị cưỡng bách phải mù quáng tin theo.Bổn phận của tất cả những người Phật tử Việt Nam là học Phật Pháp và điều hoà tác hành Phật sự, nhằm vào lợi ích cho quốc gia Việt Nam.
Quả thật người Phật tử Bắc Tông đặt trọng tâm vào sứ mạng phục vụ, còn Nam Tông thì chú tâm vào việc hành thiền. Tuy nhiên, trong khi để ra vài phút hành thiền ta cũng có thể tìm cơ hội phục vụ. Và trong khi phục vụ một cách vị tha, bất cầu lợi, ta cũng có thể dùng đủ thì giờ thích đáng để ngồi lại tịnh tâm, mưu tìm tiến bộ tinh thần. Cả hai đặc tánh chánh yếu này của Phật Pháp - phục vụ và hành thiền - có thể dung hoà và phối hợp dễ dàng.Nếu được sống thanh bình và hoà đồng trong công tác Phật sự, chắc chắn quý vị sẽ đạt được nhiều tiến bộ, về phương diện vật chất cũng như về phương diện tinh thần đạo đức. Như thế, quý vị sẽ góp mặt xứng đáng cùng với những quốc gia tân tiến khác.Nước Việt Nam tương đối bé nhỏ, nhưng người Việt Nam dũng cảm, cần mẫn, tinh xảo, đủ trí năng và đạo hạnh. Chia rẽ, quý vị sẽ yếu dần. Đoàn kết, quý vị sẽ mạnh lên."Samagga hotha" - Hãy đoàn kết lại - là lời kêu gọi thiết tha của Đức Phật.
Được một vị Phật ra đời là hy hữu! Được một giáo lý cao minh là hy hữu! Được tái sanh làm người là hy hữu!
Đời sống mặc dầu quý, quả thật là bấp bênh, vô định. Cái chết, trái lại, là điều không thể cưỡng, và nó sẽ đến, chắc như thế. Vậy, quý vị hãy sử dụng xứng đáng khoảng thời gian ngắn ngủi của kiếp sống này, cố gắng trở thành nguồn hạnh phúc cho chính mình, cho quê hương mình và cho toàn thể nhân loại.Phục vụ để trở nên hoàn toàn. Hoàn toàn để phục vụ.Với từ bi, Narada - Phật Đản, 1970
TIỂU SỬ ĐẠI ĐỨC NARADA Đại Đức Narada Maha Thera, người Tích-Lan, lúc thiếu thời theo học trường St Benedicts College, là một trường Thiên Chúa Giáo. Vào năm mười tám tuổi, Ngài xuất gia và nhập chúng dưới sự dẫn dắt của vị Đại Lão Tăng Pelene Vajiranyana. Chính ở dưới chân của vị cao tăng lỗi lạc này mà Đại Đức Narada được đào luyện châu đáo và thấm nhuần Giáo Pháp.Kế đó, Ngài vào Đại Học Đường Tích Lan và về sau được bổ làm giảng sư về môn Đạo Đức Học và Triết Học tại Đại Học này.Đại Đức Narada nổi tiếng về kiến thức sâu rộng, nhất là về đạo hạnh và từ bi.
Ngài là tác giả của nhiều quyển sách Phật giáo cô giá trị: Quyển "The Manual of Abhidhamma" (Khái luận về Vi Diệu Pháp) là bản dịch ra Anh văn phần uyên thâm nhất của giáo lý nhà Phật. Quyển "Dhammapada" (Kinh Pháp Cú) cũng được Ngài phiên dịch ra Anh văn và chú giải. Còn quyển "The Buddha and His Teachings" (Đức Phật và Phật Pháp) là một tác phẩm xuất sắc của tác giả. Riêng quyển sau cùng này có thể được xem là sách căn bản cho những ai muốn tìm hiểu Phật giáo.
Đại Đức Narada đã nhiều lần đi vòng quanh thế giới với mục đích hoằng khai Phật Pháp. Ở nhiều nơi, Ngài nói lên tiếng nói trung thực của Giáo Pháp, tức là lời dạy rõ ràng và minh bạch của Đức Phật. Ngài có thể được liệt vào hàng sứ giả tiền phong của đạo Phật, mở đường dọn lối cho những sứ giả khác.Đại Đức Narada cũng là người sáng lập ra nhiều Trung Tâm và Hiệp Hội Phật Giáo ở Đông cũng như ở Tây Phương.Ngài là Tăng Trưởng chùa Vajirarama ở Tích Lan (Sri Lanka) và là một Pháp sư nổi tiếng khắp nơi, chí đến trong chốn bình dân.
Hòa thượng Narada (Narada Maha Thera) có thế danh là Sumanapala. Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka). Ngài xuất thân từ một gia đình trung lưu trí thức, và được gửi đi học cấp tiểu học và trung học của nhà dòng La-san đạo Gia-tô. Dù rằng ngài đã được đào tạo trong môi trường đạo Thiên Chúa, ngài lúc nào cũng hâm mộ đạo Phật và học tập Phật Pháp từ một người chú, và ngài học thêm tiếng Sanskrit từ Hòa thượng Palita, tham dự nhiều khóa giáo lý vào các ngày cuối tuần tại chùa Paramananda trong vùng.
Năm 18 tuổi ngài quyết định xuất gia, thọ giới Sa di với pháp danh là Narada, vị thầy bổn sư là Hòa thượng Vajiranana, một vị danh tăng vào thời đó. Thầy truyền giới là Hòa thượng Revata, và thầy truyền pháp là Tỳ kheo Pelene. Sau đó, ngài theo học các khóa Vi Diệu Pháp và Ngữ học Đông phương.Sa di Narada thọ giới cụ túc (tỳ kheo) vào năm lên 20 tuổi. Ngài được gửi đi học các khóa Đạo đức học và Triết học tại Đại học Tích Lan (Ceylon University College), với nhiều giáo sư danh tiếng như Đại đức Sumangala, Tiến sĩ Chandrasena, và Bác sĩ Pereira (về sau xuất gia, và trở thành Đại đức Kassapa rất nổi tiếng).
Năm 30 tuổi, ngài được cử đi tham dự lễ khánh thành chùa Mulagandhakuti tại Saranath (Xa-nặc), Benares (Ba-na-lại), Ấn Độ, và tham gia các công tác hoằng pháp tại đó. Trong thời gian này, ngài có dịp công tác với ông Jawaharial Nehru mà về sau trở thành vị thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ.Ít lâu sau ngài được cử đi truyền giáo tại Trung Quốc và các nước Đông Nam Á -- Cam Bốt, Lào, Việt Nam, Nam Dương, Mã Lai. Tại những nơi này, ngài thường được tiếp đón rất nồng hậu. Quốc vương Cam Bốt tôn vinh ngài là Đức Đại Tôn Giả (Sri Maha Sadhu)…
TRÍCH ĐOẠN:
Lời Mở Đầu Để trình bày đời sống và giáo huấn của Đức Phật cho những ai muốn hiểu Phật giáo, nhiều quyển sách quý giá đã được ấn hành, do những học giả Đông, Tây, trong hàng Phật tử, cũng như những người không theo đạo Phật. Trong rừng thư mênh mông ấy, quyển "Ánh Sáng của Á Châu" (The Light of Asia), do tác giả Sir Edwin Arnold, được chú trọng và ưa thích nhất. Nhiều người phương Tây muốn tìm hiểu chân lý đã hướng về đạo Phật sau khi đọc tập thơ trứ danh này.
Người Phật tử, ở phương Đông cũng như ở phương Tây, hết lòng ca ngợi công đức của các nhà học giả đã viết ra những thiên sách hữu ích để rọi sáng Giáo Pháp. Bản khái luận mới mẻ này là một cố gắng khiêm tốn khác của một hội viên Giáo Hội Tăng Già, căn cứ trên kinh điển Nam Phạn (Pali) các chú giải, và các tập tục cổ truyền nhởi bật nhất trong những quốc gia Phật giáo, nhất là ở Tích Lan (Sri Lanka). Phần đầu quyển sách này đề cập đến đời sống của Đức Phật, phần nhì là Phật Pháp, giáo lý của Ngài, danh từ tiếng Phạn (Pali) là Dhamma.
Phật Pháp là một hệ thống triết học và luân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông, hay để thỏa mãn tri thức. Giáo Pháp chắc chắn phải được học, nhưng hơn nữa, phải được thực hành, và trên hết, phải được tự mình chứng ngộ. Học suông mà không thật sự mình thực hành thì không bổ ích. Đức Phật dạy rằng người có pháp học mà không có pháp hành cũng tựa hồ như tai hoa lộng lẫy mầu sắc, nhưng không hương vị. Người không học Giáo Pháp như mù. Nhưng người học mà không hành thì chẳng khác nào một thư viện.
Có vài lời phê bình vội vã cho rằng Phật Giáo là một tôn giáo tiêu cực và thụ động. Lời chỉ trích vô căn cứ ấy hẳn còn xa sự thật. Đức Phật là nhà truyền giáo đầu tiên hoạt động tích cực nhất lịch sử nhân loại. Trải qua bốn mươi lăm năm trường, Ngài đi từ nơi này sang nơi khác để hoằng dương giáo lý, đến hàng đại chúng cũng như các bậc thiện trí. Chí đến giây phút cuối cùng Ngài phục vụ nhân loại bằng gương lành trong sạch và giáo huấn cao thượng. Hàng môn đệ lỗi lạc của Ngài cũng bước đúng theo dấu chân Ngài. Không một xu trong túi, các vị ấy đi đến những phương trời xa lạ để truyền bá Giáo Pháp mà không bao giờ cầu mong đền đáp.
"Liên tục và kiên trì nỗ lực" là di huấn tối hậu của Đức Phật. Không có sự giải thoát nào, không có sự thanh lọc nào có thể thực hiện được nếu không có cố gắng cá nhân. Như vậy, Phật giáo không chủ trương van vái nguyện cầu mà thay vào đó, dạy thực hành thiền tập, là một phương pháp tự kiểm soát, tự thanh lọc và giác ngộ. Hai đặc điểm nổi bật nhất của Phật giáo là hành thiền và phục vụ. Trên thực tế, tất cả những quốc gia Phật giáo đã vươn mình trưởng thành trong tổ ấm của Phật giáo và dưới tàng bóng mát mẻ của Đức Phật.
"Không hành ác", tức không làm cho mình trở thành một tội khổ cho mình và cho kẻ khác, là lời khuyên nhủ đầu tiên của Đức Phật. Lời dạy tiếp theo - " hành thiện" - là hãy trở nên một phước lành, cho mình và cho kẻ khác, và lời kêu gọi cuối cùng - "thanh lọc tâm" - thật vô cùng quan trọng và cực kỳ thiết yếu. Có thể gọi một tôn giáo như vậy là thụ động và tiêu cực không? Cũng nên ghi nhận là trong ba mươi bảy yếu tố dẫn đến Giác Ngộ (Bhodhipakkhiya Dhamma, ba mươi bảy pháp Trợ Đạo, hay ba mươi bảy Bồ Đề Phần), tinh tấn (viriya) được nhắc đến chín lần. Để minh định rõ ràng mối tương quan giữa Ngài và hàng tín đồ, Đức Phật dạy:
"Các con hãy tự mình cố gắng, Các đấng Như Lai chỉ là những đạo sư".
Đức Phật vạch ra con đường. Phần chúng ta là có noi theo con đường ấy để tự thanh lọc hay không. Cố gắng là rất quan trọng trong Phật Giáo.
"Chính ta làm cho ta trong sạch; Chính ta làm cho ta ô nhiễm."
Phải khép mình vào khuôn khổ kỷ cương, chư vị tỳ khưu chỉ có thể hoạt động trong phạm vi giới luật của các ngài. Hàng cư sĩ thì có thể phục vụ đạo pháp, quốc gia, và thế gian một cách khác, nhưng vẫn theo tinh thần của những nguyên tắc Phật Giáo. Phật Giáo vạch ra một lối sống cho bậc xuất gia và một lối sống khác cho hàng cư sĩ. Hiểu một cách, tất cả Phật tử là những chiến sĩ can đảm. Họ chiến đấu, nhưng không phải bằng súng ống và bom đạn. Họ giết chóc, nhưng không giết đàn ông, đàn bà và trẻ con vô tội. Vậy người Phật tử chiến đấu chống ai, và bằng khí giới nào? Người Phật tử giết ai một cách tàn nhẫn?
Họ chiến đấu chống chính họ, bởi vì con người là kẻ thù tệ hại của con người. Tâm là địch thủ nguy hiểm nhất, mà cũng là người bạn tốt nhất. Không chút xót thương, người Phật tử tàn sát và tận diệt những khát vọng tham ái, sân hận và si mê ở trong tâm họ bằng võ khí Giới, Định và Tuệ. Những ai thích một mình chiến đấu chống lại khát vọng của mình trong cảnh tịch mịch vắng vẻ, hoàn toàn được tự do làm theo ý mình. Chư tỳ khưu sống ẩn dật là những gương lành đáng được kính nể. Đối với hạng người biết tri túc, trạng thái cô đơn là một nguồn hạnh phúc. Những vị nào muốn chiến đấu với những vấn đề khó khăn của đời để cố gắng tạo nên một thế gian hữu phúc trong ấy con người có thể sống như những công dân lý tưởng, thanh bình và hoà hợp, cũng có thể nhận lãnh trách nhiệm, dấn thân trên con đường gian truân ấy. Con người được sanh ra, không phải để phục vụ Phật Giáo. Nhưng Phật Giáo được thành lập để phục vụ con người.
Hiểu đúng theo giáo lý của Đức Phật, tình trạng giàu hay nghèo không thể là một trở ngại cho việc trở thành Phật tử lý tưởng. Ông Anathapindika (Cấp Cô Độc), vị thí chủ trung kiên nhất của Đức Phật, là một triệu phú gia. Ghatikara, được kính nể còn hơn một vì vua, chỉ là người thợ đồ gốm nghèo nàn. Phật Giáo thích hợp với cả hai giai cấp, nghèo và giàu. Phật Giáo cũng thích hợp với cả hai hạng người, đại chúng và tri thức. Hạng người kém học hướng về Phật Giáo do phần tình cảm nhiệt thành với đạo pháp và phần luân lý giản dị. Người tri thức thì say mê trong giáo lý thâm diệu và phương pháp trau giồi tâm trí.
Một du khách không quen thuộc với tập tục của các dân tộc Phật Giáo ắt có những cảm nghĩ lầm lạc khi bước chân vào chùa lần đầu tiên, và cho rằng Phật Giáo chỉ là những nghi thức lễ bái, là một tôn giáo có tánh cách dị đoan, chứa đựng những hình thức cúng tế sùng bái tượng gỗ và cây cối. Là một tôn giáo khoan hồng, Phật Giáo không phủ nhận hay bác bỏ những hình thức kỉnh mộ bề ngoài ấy, vì nó cần thiết cho đại chúng. Ta có thể nhìn thấy phần đông thiện tín thành tâm kính cẩn như thế nào lúc đến chùa dự lễ. Do thái độ tôn kính ấy đức tin càng tăng trưởng.
Người Phật tử quỳ lạy trước pho tượng Phật và tỏ lòng kỉnh mộ của mình đối với lý tưởng mà pho tượng ấy biểu hiện. Người Phật tử hiểu biết suy niệm về những phẩm hạnh cao cả của Đức Phật và không cầu mong một ân huệ vật chất hay tinh thần nào. Cây bồ đề, đàng khác, tượng trưng sự giác ngộ. Đức Phật không trông chờ hàng tín đồ mãi sống trong những nghi lễ mà trái lại, khuyên dạy nên thực hành đúng theo Giáo Huấn của Ngài. "Người thực hành đúng theo giáo huấn của Như Lai nhất là tôn sùng Như Lai nhất", là lời dạy của Đức Phật. Một người Phật tử hiểu biết có thể thực hành Giáo Pháp (Dhamma) mà không cần những hình thức lễ bái bề ngoài ấy. Chùa chiền và tượng Phật không tuyệt đối cần để hành Bát Chánh Đạo.
Có đúng không nếu nói rằng Phật Giáo chỉ đề cập đến những việc hoàn toàn ngoài thế gian, mặc dầu Phật Giáo chủ trương có một chuỗi dài những kiếp sống, trong quá khứ và ở vị lai, và một số cảnh giới vô tận trong ấy chúng sanh có thể sống? Sứ mạng của Đức Phật nhằm vào sự giải thoát chúng sanh ra khỏi khổ đau phiền não bằng cách tận diệt nguồn gốc của nó và vạch ra con đường để cho ai muốn, có thể chấm dứt cả sanh lẫn tử. Tuy nhiên, đôi khi Đức Phật cũng truyền dạy những bài kinh hướng tiến bộ vật chất. Cả hai tiến bộ - vật chất và tinh thần - đều cần thiết cho sự phát triển của một quốc gia. Không nên tách rời cái này ra khỏi cái kia.
Cũng không nên hy sinh tiến bộ tinh thần để thành đạt những mức tiến vật chất như chúng ta đang mục kích tại một vài quốc gia quá thiên về đời sống vật chất. Nhiệm vụ của các chánh phủ và các hội từ thiện là phát triển sống vật chất và tạo điều kiện thuận lợi cho dân chúng. Trong khi ấy, các tôn giáo, như Phật Giáo chẳng hạn, có phận sự chăm lo phát huy tinh thần đạo đức, giúp cho mỗi người có thể trở thành một công dân lý tưởng. Phật Giáo đi ngược chiều với phần đông các tôn giáo khác khi khai quang con đường "Trung Đạo" và truyền bá giáo lý lấy nhân bản làm trung tâm thay vì giáo điều lấy thần linh làm trụ cốt. Như vậy, Phật Giáo hướng nội và nhằm giải thoát từng cá nhân. Giáo Pháp (Dhamma) phải được tự mình chứng ngộ (sanditthiko).
Theo thường, cứu cánh của phần đông nhân loại là "tuyệt diệt hoàn toàn" hoặc "trường tồn vĩnh cửu". Người theo chủ nghĩa vật chất tin rằng sau khi chết con người hoàn toàn trở thành hư vô, không còn gì nữa. Một vài tôn giáo chủ trương rằng mục tiêu cứu cánh chỉ có thể thành tựu sau kiếp sống trong sự hợp nhất vĩnh viễn với một Thần Linh Vạn Năng, hoặc một sinh lực không thể giải thích, hay nói cách khác, một hình thức trường tồn vĩnh cửu. Phật Giáo dạy con đường "Trung Đạo". Mục tiêu cứu cánh của Phật Giáo không phải là trạng thái tuyệt diệt bởi vì không có cái chi thường còn để tuyệt diệt, cũng không phải sự trường tồn vĩnh cửu bởi không có một linh hồn trường cửu để vĩnh viễn hoá. Mục tiêu cứu cánh của Phật Giáo có thể thành đạt ngay trong chính kiếp sống này.
Việc gì xảy đến một vị A La Hán sau khi Ngài viên tịch? Đó là một câu hỏi tế nhị và khó giải đáp, vì Niết Bàn là pháp siêu thế, ngoài không gian và thời gian, và ngôn ngữ của con người không thể diễn tả. Nói một cách chính xác, có Niết Bàn nhưng không có người chứng đắc Niết Bàn. Theo lời Đức Phật dạy, nói rằng một vị A La Hán còn sống hay không còn sống, "tại" hay "bất tại", sau khi Ngài viên tịch, đều không đúng. Tỷ như ngọn lửa đang cháy bỗng nhiên tắt, không thể nói khi tắt, ngọn lửa ấy đi về phía nào trong bốn phương tám hướng. Khi nhiên liệu hết thì lửa tắt. Đức Phật nêu ra thí dụ ngọn lửa và thêm rằng câu hỏi đặt như thế không đúng. Chúng ta có thể bối rối và không hiểu gì. nhưng điều đó cũng không lạ. Sau đây là một thí dụ khác của nhà khoa học hiện đại, Robert Oppenheimer:
"Thí dụ, nếu hỏi hột điện tử có giữ nguyên một vị trí không? Ta phải nói "không". Nếu hỏi, với thời gian, hột điện tử có thay đổi vị trí không? Ta phải nói "không". Nếu hỏi, hột điện tử có ở yên không? Ta phải nói "không". Nếu hỏi, hột điện tử có di động không? Ta phải nói "không". "Đức Phật đã giải đáp tương tợ khi có người hỏi Ngài về điều kiện của một người sau khi chết. Nhưng đó là câu trả lời không quen thuộc với truyền thống khoa học của hai thế kỷ XVII và XVIII." Lẽ dĩ nhiên nhà học giả uyên thâm muốn ám chỉ một người đã đắc quả A La Hán.
Đạt đến trạng thái ấy thì có lợi ích gì? Tại sao phải chấm dứt mọi cuộc sinh tồn trên thế gian? Tại sao không xác nhận rằng đời sống trên thế gian này đầy lạc thú? Đó là những câu hỏi điển hình thường được nêu lên do người, hoặc muốn tận hưởng khoái lạc của đời sống, hoặc muốn phục vụ nhân loại, đảm đương trách nhiệm, và chấp nhận mọi đau khổ. Đối với hạng trên, người Phật tử có thể nói: - "Nếu thấy thoả thích, ông cứ hưởng thọ khoái lạc của đời sống, nhưng chớ nên làm nô lệ cho những thú vui tạm bợ và huyền ảo. Dầu có thoả thích hay không, ông cũng phải gặt hái hậu quả của những gì mà ông đã gieo".
Đối với hạng sau, người Phật tử có thể nói: - "Ông hãy cố gắng tận dụng mọi phương tiện để kiến tạo hạnh phúc cho nhân loại và hãy thoả thích với tinh thần phục vụ vị tha ấy". Phật Giáo trình bày mục tiêu Niết-Bàn cho những ai cảm thấy cần đến và không bao giờ có ý cưỡng bách ai. "Hãy đến và xem", Đức Phật khuyên như vậy. Cho đến khi đạt được mục tiêu cứu cánh, người Phật tử phải sống đời thanh cao hữu ích. Phật Giáo có những nguyên tắc luân lý tốt đẹp, thích hợp với người sơ cơ trên đường đạo pháp cũng như người đã tiến triển khá xa. Đó là:
a. Năm giới (Panca Sila): Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ và không dùng chất say. b. Bốn Trạng Thái Cao Thượng (Brahma Vihara, Tứ Vô Lượng Tâm): Từ, Bi, Hỷ và Xả. c. Mười Phẩm Hạnh Siêu Thế (Paramita, Ba La Mật): Bố thí, trì giới, xuất gia, trí tuệ, tinh tấn, nhẫn nại, chân thật, quyết định, tâm từ và tâm xả. d. Bát Chánh Đạo: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.
Những ai có nguyện vọng đắc Quả A La Hán nhân cơ hợi sớm nhất có thể suy niệm về lời Đức Phật khuyên dạy Rahula (La Hầu La) như sau: "Thân này không phải của ta; cái này không phải là ta; đây không phải là linh hồn của ta." ("N'etam mama, n'eso' hamasmi, na me so atta") …
MỤC LỤC
PHẦN I - ĐỨC PHẬT CHƯƠNG 01 - TỪ ĐẢN SANH ĐẾN XUẤT GIA ĐẢN SANH LỄ QUÁNG ĐÍNH (ĐẶT TÊN) LỄ HẠ ĐIỀN GIÁO DỤC KẾT HÔN XUẤT GIA TÌM CHÂN LÝ CHƯƠNG 02 - CHIẾN ĐẤU ĐỂ THÀNH ĐẠT ĐẠO QUẢ CUỘC CHIẾN ĐẤU THAY ĐỔI PHƯƠNG PHÁP: TUYỆT THỰC MA VƯƠNG ÁC TÂM CÁM DỖ CON ĐƯỜNG "TRUNG ĐẠO" BÌNH MINH CỦA CHÂN LÝ CHƯƠNG 03 - ĐẠO QUẢ PHẬT ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐỨC PHẬT PHẬT LÀ AI? TÁNH CÁCH VĨ ĐẠI CỦA ĐỨC PHẬT CHƯƠNG 04 - SAU KHI THÀNH ĐẠO TUẦN LỄ ĐẦU TIÊN TUẦN THỨ NHÌ TUẦN THỨ BA CHƯƠNG 05 - CUNG THỈNH ĐỨC PHẬT TRUYỀN BÁ GIÁO PHÁP GIÁO PHÁP LÀ THẦY HAI THIỆN TÍN ĐẦU TIÊN TRÊN ĐƯỜNG ĐẾN BANARES CHƯƠNG 06 - KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN - BÀI PHÁP ĐẦU TIÊN LỜI GIỚI THIỆU BÀI PHÁP ĐẦU TIÊN CỦA ĐỨC PHẬT VÀI NHẬN XÉT VỀ KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN BÀI PHÁP THỨ NHÌ - ANATTALAKKHANA SUTTA (KINH VÔ NGÃ TƯỚNG) CHƯƠNG 07 - TRUYỀN BÁ GIÁO PHÁP CẢM HÓA YASA VÀ CÁC BẠN HỮU NHỮNG NHÀ TRUYỀN BÁ CHÂN LÝ ĐẦU TIÊN (DHAMMADUTA) THÀNH LẬP GIÁO HỘI TĂNG GIÀ THÂU NHẬN BA MƯƠI THANH NIÊN CẢM HÓA BA ANH EM KASSAPA (CA DIẾP) ADITTA PARIYAYA SUTTA, BÀI KINH ĐỀ CẬP ĐẾN "TẤT CẢ ĐỀU BỊ THIÊU ĐỐT" CẢM HÓA ĐỨC SARIPUTTA (XÁ LỢI PHẤT) VÀ ĐỨC MOGGALLANA (MỤC KIỀN LIÊN) CHƯƠNG 08 - ĐỨC PHẬT VÀ THÂN QUYẾN (I) VUA TỊNH PHẠN MUỐN GẶP ĐỨC PHẬT ĐỨC PHẬT ĐI TRÌ BÌNH VÀ TẾ ĐỘ ĐỨC VUA SUDDHODANA ĐỨC PHẬT VÀ CÔNG CHÚA YASODHARA (DA DU ĐÀ LA) CHƯƠNG 09 - ĐỨC PHẬT VÀ THÂN QUYẾN (II) ĐỨC PHẬT VÀ NGƯỜI EM KHÁC MẸ ĐỨC PHẬT VÀ ĐỨC ANANDA CÂY BỒ ĐỀ ANANDA ĐỨC ANANDA VÀ GIỚI PHỤ NỮ ĐỨC PHẬT VÀ BÀ DI MẪU MAHA PAJAPATI GOTAMI CHƯƠNG 10 - NHỮNG NGƯỜI CHỐNG ĐỐI VÀ NHỮNG ĐẠI THÍ CHỦ ĐỨC PHẬT VÀ DEVADATTA ANATHAPINDIKA (CẤP CÔ ĐỘC) BÀ VISAKHA CHƯƠNG 11 - NHỮNG ĐẠI THÍ CHỦ TRONG HÀNG VUA CHÚA VUA BIMBISARA (BÌNH SA VƯƠNG) CHƯƠNG 12 - CON ĐƯỜNG HOẰNG PHÁP HAI MƯƠI HẠ ĐẦU TIÊN ĐỨC PHẬT VÀ ANGULIMALA CHƯƠNG 13 - ĐỜI SỐNG HẰNG NGÀY CỦA ĐỨC PHẬT BUỔI SÁNG BUỔI TRƯA CANH ĐẦU CANH GIỮA CHƯƠNG 14 - ĐỨC PHẬT NHẬP ĐẠI NIẾT BÀN ĐIỀU KIỆN THỊNH SUY LỜI TÁN DƯƠNG CỦA ĐỨC SARIPUTTA (XÁ LỢI PHẤT) PATALIPUTTA NHỮNG CẢNH GIỚI TƯƠNG LAI GƯƠNG TRONG CỦA PHÁP BẢO (DHAMMÀDÀSA) AMBAPALI ĐỨC PHẬT LÂM BỆNH LỜI KÊU GỌI CỦA ĐỨC PHẬT. ĐỨC PHẬT BÁO TRƯỚC NGÀY NHẬP DIỆT NHỮNG PHẬT NGÔN TỐI HẬU BỐN ĐIỀU THAM CHIẾU LỚN BỮA CƠM NHIỀU PHƯỚC BÁU CỦA CUNDA PHẢI TÔN KÍNH ĐỨC PHẬT NHƯ THẾ NÀO BỐN THÁNH TÍCH ĐỨC PHẬT CẢM HÓA SUBHADDA QUANG CẢNH CUỐI CÙNG ĐỨC PHẬT VIÊN TỊCH PHẦN II - PHẬT PHÁP CHƯƠNG 15 - PHẬT GIÁO LÀ GÌ? TAM TẠNG KINH TẠNG LUẬT (VINAYA PITAKA) TẠNG KINH (SUTTA PITAKA) TẠNG LUẬN (ABHIDHAMMA PITAKA - VI DIỆU PHÁP TẠNG) PHẬT GIÁO CÓ PHẢI LÀ MỘT TRIẾT HỌC KHÔNG? PHẬT GIÁO CÓ PHẢI LÀ MỘT TÔN GIÁO KHÔNG? PHẬT GIÁO VÀ LUÂN LÝ VẬY, THEO PHẬT GIÁO, TIÊU CHUẨN CỦA LUÂN LÝ LÀ GÌ? PHẬT GIÁO LÀ GÌ? CHƯƠNG 16 - VÀI ĐẶC ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO NỀN TẢNG CỦA PHẬT GIÁO ĐỊNH LUẬT NHÂN QUẢ VÀ HẠNH PHÚC ĐỨC KHOAN HỒNG TRONG PHẬT GIÁO PHẬT GIÁO VÀ ĐẲNG CẤP XÃ HỘI PHẬT GIÁO VÀ HÀNG PHỤ NỮ PHẬT GIÁO VÀ TINH THẦN BẤT BẠO ĐỘNG CHƯƠNG 17 - BỐN CHÂN LÝ THÂM DIỆU HAY TỨ DIỆU ĐẾ CHƯƠNG 18 - NGHIỆP BÁO NGUYÊN NHÂN CỦA SỰ CHÊNH LỆCH KHÔNG PHẢI TẤT CẢ ĐỀU DO NGHIỆP NĂM NIYAMA (ĐỊNH LUẬT) NGHIỆP BÁO CHỈ LÀ MỘT TRONG NĂM ĐỊNH LUẬT ẤY CHƯƠNG 19 - NGHIỆP LÀ GÌ? NGHIỆP (KAMMA) NGHIỆP VÀ QUẢ (KAMMA VÀ VIPAKA) NGUỒN GỐC CỦA NGHIỆP NGƯỜI TẠO NGHIỆP NGHIỆP Ở ĐÂU? CHƯƠNG 20 - SỰ BÁO ỨNG CỦA NGHIỆP LỘ TRÌNH TIẾN TRIỂN CỦA MỘT TƯ TƯỞNG CHƯƠNG 21 - TÍNH CHẤT CỦA NGHIỆP DUYÊN HỖ TRỢ VÀ DUYÊN TRỞ NGẠI CHƯƠNG 22 - KHỞI THỦY CỦA ĐỜI SỐNG LÀ GÌ? CHƯƠNG 23 - ĐỨC PHẬT VÀ VẤN ĐỀ THẦN LINH TẠO HÓA CHƯƠNG 24 - DO ĐÂU TIN CÓ TÁI SANH? CHƯƠNG 25 - THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN CHƯƠNG 26 - NHỮNG NÌNH THỨC SANH VÀ TỬ CHƯƠNG 27 - NHỮNG CẢNH GIỚI 1. ĐỊA NGỤC (NIRAYA) 2. CẢNH THÚ (TIRACCHANA-YONI) 3. CẢNH NGẠ QUỈ (PETA-JONI) 4. CẢNH GIỚI A TU LA (ASURA-YONI) 1. CẢNH NGƯỜI (MANUSSA). 2. CẢNH TỨ ĐẠI THIÊN VƯƠNG (CATUMMAHARAJIKA) 3. CẢNH ĐẠO LỢI (TAVATIMSA) 4. CẢNH DẠ MA (YAMA) 5. CẢNH ĐẤU XUẤT ĐÀ (TUSITA) 6. CẢNH HÓA LẠC THIÊN (NIMMANARATI) 7. CẢNH THA HÓA TỰ TẠI (PARANIMMITAVASAVATTI) CHƯƠNG 28 - HIỆN TƯỢNG TÁI SANH CHƯƠNG 29 - CÁI GÌ ĐI TÁI SANH? CHƯƠNG 30 - TRÁCH NHIỆM TINH THẦN CHƯƠNG 31 - NGHIỆP CHUYỂN LÊN VÀ NGHIỆP CHUYỂN XUỐNG CHƯƠNG 32 - NGHIỆP BÁO VÀ TÁI SANH VỚI NGƯỜI PHƯƠNG TÂY CHƯƠNG 33 - NIẾT BÀN HỮU DƯ NIẾT BÀN VÀ VÔ DƯ NIẾT BÀN. CHƯƠNG 34 - ĐẶC TÁNH CỦA NIẾT BÀN CHƯƠNG 35 - CON ĐƯỜNG NIẾT BÀN (I) CHƯƠNG 36 - CON ĐƯỜNG NIẾT BÀN (II) TÂM ĐỊNH (SAMADHI) ĐỀ MỤC TỬ THI (ASUBHA) NIỆM VỀ HỒNG ÂN CỦA ĐỨC PHẬT (BUDDHANUSSATI) NIỆM VỀ GIỚI ĐỨC (SILANUSSATI) NIỆM VỀ TÂM BỐ THÍ (CAGANUSSATI) NIỆM VỀ NHỮNG ĐẶC TÍNH CỦA NIẾT BÀN (UPASAMANUSSATI) NIỆM VỀ SỰ CHẾT (MARANANUSSATI) NIỆM THÂN (KAYAGATASATI) NIỆM HƠI THỞ (ANAPANASATI) TỨ VÔ LƯỢNG TÂM (BRAHMAVIHARA) CHƯƠNG 37 - CHƯỚNG NGẠI TINH THẦN CHƯƠNG 38 - CON ĐƯỜNG NIẾT BÀN (III) CHƯƠNG 39 - PHẨM HẠNH A LA HÁN CHƯƠNG 40 - LÝ TƯỞNG CỦA BỒ TÁT, HAY BỒ TÁT ĐẠO CHƯƠNG 41 - BA LA MẬT 1. BỐ THÍ ( DANA) 2. TRÌ GIỚI (SILA) 3. XUẤT GIA (NEKKHAMMA) 4. TRÍ TUỆ (PANNA) 5. TINH TẤN (VIRIYA) 6. NHẪN NẠI (KHANTI) 7. CHÂN THẬT (SACCA) 8. QUYẾT ĐỊNH (ADHITTHANA) 9. TÂM TỪ (METTA) 10. TÂM XẢ (UPEKKHA) CHƯƠNG 42 - TỨ VÔ LƯỢNG TÂM 1. TÂM TỪ (METTA) 2. TÂM BI (KARUNA) 3. TÂM HỶ (MUDITA) 4. TÂM XẢ (UPEKKHA) CHƯƠNG 43 - TÁM PHÁP THẾ GIAN 1. ĐƯỢC VÀ THUA (LABHA VÀ ALABHA) 2. DANH THƠM VÀ TIẾNG XẤU (YASA VÀ AYASA) 3. CA TỤNG VÀ KHIỄN TRÁCH (PASAMSA VÀ NINDA) 4. HẠNH PHÚC VÀ ĐAU KHỔ (SUKHA VÀ DUKKHA) CHƯƠNG 44 - NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA KIẾP NHÂN SINH 1. CON NGƯỜI LÀ GÌ? 2. TỪ ĐÂU ĐẾN? 3. ĐI VỀ ĐÂU? 4. CON NGƯỜI ĐI VỀ ĐÂU? 5. TẠI SAO? PHỤ BẢN 1 - HẠNH PHÚC KINH - (MANGALA SUTTA) PHỤ BẢN 2 - KINH SUY ĐỒI (PARABHAVA SUTTA) PHỤ BẢN 3 - KINH HẠNG CÙNG ĐINH PHỤ BẢN 4 - TAM BẢO KINH (RATANA SUTTA) PHỤ BẢN 5 - TỪ BI KINH (METTA SUTTA) PHỤ BẢN 6 - KINH NIỆM XỨ (SATIPATTHANA SUTTA) LỜI MỞ ĐẦU I. ĐẦU TIÊN LÀ KAYANUPASSANA, THÂN QUÁN NIỆM XỨ, HAY NIỆM THÂN II. PHÁP THỨ NHÌ, THỌ QUÁN NIỆM XỨ, HAY NIỆM THỌ, VEDANANUPASSANA III. PHÁP THỨ BA, TÂM QUÁN NIỆM XỨ, HAY NIỆM TÂM, CITTANUPASSANA IV. PHÁP THỨ TƯ LÀ PHÁP QUÁN NIỆM XỨ, HAY NIỆM PHÁP, DHAMMANUPASSANA KINH NIỆM XỨ (SATIPATTHANA SUTTA) I. NIỆM THÂN (KAYANUPASSANA) II. NIỆM THỌ (VEDANANUPASSANA) III. NIỆM TÂM (CITTANUPASSANA) IV. NIỆM PHÁP (DHAMMANUPASSANA)