NIỆM PHẬT THẬP YẾU - HT THÍCH THIỀN TÂMSoạn Giả: Thích Thiền Tâm Nhà Xuất Bản: Tôn Giáo Số Trang: 334 Trang Hình Thức: Bìa Mềm Khổ Sách: 15,5x23cm Năm Xuất Bản: 2017 Độ Dày: 1,6cmNPTYSÁCH GIÁO LÝ60.000đSố lượng: 27 Quyển
Lời Phi Lộ Bản thảo quyển Niệm Phật Thập Yếu này vừa viết xong, có vài ba Đại đức hỏi mượn luân phiên nhau xem, rồi cật vấn: Chúng tôi thấy chư vị hoằng dương về Thiền tông, dường như có ý bài xích Tịnh độ. Chẳng hạn như trong quyển SÁU CỬA VÀO ĐỘNG THIẾU THẤT có câu “Niệm Phật tụng Kinh đều là vọng tưởng”. Còn trong đây lại bảo: “Môn Tịnh độ hợp thời cơ, gồm nhiếp ba căn, kiêm thông cả Thiền, Giáo, Luật, Mật”. Xem ra cũng dường như có ý cho Tịnh độ là độc thắng, sự việc ấy như thế nào?
Đáp: Không phải thế đâu! Mỗi môn đều có tôn chỉ riêng. Các bậc hoằng dương tùy theo chỗ lập pháp của mình, bao nhiêu phương tiện thuyết giáo đều đi về những tôn chỉ ấy. Như bên Thiền lấy: “Chỉ thẳng lòng người, thấy tánh thành Phật” làm Tôn chỉ. Tịnh độ môn lấy: “Một đời vãng sanh, được bất thối chuyển” làm tông. Bên Hoa Nghiêm lấy: “Lìa thế gian nhập pháp giới” làm tông. Thiên Thai giáo lấy: “Mở, bày, ngộ, vào tri kiến Phật” làm tông. Bên Tam Luận lấy: “Lìa hai bên vào Trung đạo” làm tông. Pháp Tướng môn lấy: “Nhiếp muôn pháp về Chơn duy thức” làm tông. Mật giáo lấy: “Tam mật tương ưng, tức thân thành Phật” làm tông. Và Luật môn lấy: “Nhiếp thân ngữ ý vào Thi- la tánh” làm tông.
Cho nên, lời nói bên Thiền ở trên, không phải bác Tịnh độ, hay bác niệm Phật tụng Kinh, mà chính là phá sự chấp kiến về Phật và Pháp của người tu. Nếu niệm Phật và tụng Kinh là thấp kém sai lầm, tại sao từ Đức Thích Tôn cho đến chư Bồ-tát, Tổ sư đều ngợi khen khuyên dạy tụng Kinh niệm Phật ? Nên biết, Vĩnh Minh Thiền sư, tương truyền là hóa thân của Phật A Di Đà, mỗi ngày đều tụng một bộ Pháp Hoa. Lại, Phổ Am Đại sư cũng nhân tụng Kinh Hoa Nghiêm mà được ngộ đạo. Sự thuyết giáo bên Tịnh độ cũng thế, không phải bác phá Thiền tông, chỉ nói lên chỗ đặc sắc thiết yếu của bản môn, để cho học giả suy xét tìm hiểu sâu rộng thêm, mà tùy thích tùy cơ, chọn đường thủ nhập.
Lại, mỗi môn tuy tôn chỉ không đồng, nhưng đều là phương tiện dẫn chung về Phật tánh. Như một đô thành lớn có tám ngõ đi vào, mà nẻo nào cũng tập trung về đô thị ấy. Các tông đại khái chia ra làm hai, là Không môn và Hữu môn. Không môn từ phương tiện lý tánh đi vào, Hữu môn từ phương tiện sự tướng đi vào. Nhưng đi đến chỗ tận cùng thì dung hội tất cả, sự tức lý, lý tức sự, tánh tức tướng, tướng tức tánh, nói cách khác : sắc tức là không, không tức là sắc, không và sắc chẳng khác nhau. Cho nên khi xưa có một vị Đại sư tham thiền ngộ đạo, nhưng lại mật tu về Tịnh độ. Lúc lâm chung Ngài lưu kệ phó chúc cho đại chúng, rồi niệm Phật sắp vãng sanh.
Một vị thiền giả bỗng lên tiếng hỏi: “Cực Lạc là cõi hữu vị, sao Tôn đức lại cầu về làm chi?”. Đại sư quát bảo: “Người nói vô vi ngoài hữu vi mà có hay sao?”. Thiền giả nghe xong chợt tỉnh ngộ. Thế nên Thiền và Tịnh đồng về một mục tiêu, Hữu môn cùng Không môn tuy dường tương hoại mà thật ra tương thành cho nhau vậy. Đến như nói; “Tịnh độ hợp thời cơ, gồm nhiếp ba căn, kiêm thông cả Thiền, Giáo, Luật, Mật” chính là lời khai thị của chư Cổ đức như Liên Trì, Triệt Ngộ, Ngẫu Ích, Kiến Mật. Các Đại sư này là những bậc long tượng trong một thời, sau khi tham thiền ngộ đạo, lại xương minh về lý mầu của Tịnh độ pháp môn.
Như Triệt Ngộ Đại sư, trong tập Ngữ Lục, đã bảo: “Một câu A Di Đà. Tâm yếu của Phật ta. Dọc quán suốt năm thời. Ngang gồm thâu tám giáo”. Và Kiên Mật Đại sư sau khi quán sát thời cơ, trong Tam Đại Yếu, cũng bảo: “Đời nay tham thiền chẳng nên không kiêm Tịnh độ, phòng khi chưa chứng đạo bị thối chuyển, há chẳng kinh sợ lạnh lòng? Một câu A Di Đà, nếu không phải là bậc thượng căn, đại triệt, đại ngộ, tất không thể hoàn toàn đề khởi. Nhưng với câu này, kẻ hạ căn tối ngu vẫn chẳng chút chi kém thiếu!”. Thế nên, thuốc không quý tiện, lành bệnh là thuốc hay, pháp chẳng thấp cao, hợp cơ là pháp diệu.
Tịnh độ với Thiền tông thật ra chẳng thấp cao hơn kém. Nhưng luận về căn cơ thì Thiền tông duy bậc thượng căn mới có thể được lợi ích, còn môn Tịnh độ thì gồm nhiếp cả ba căn, hạng nào nếu tu cũng đều dễ thành kết quả. Luận về thời tiết thì thời mạt pháp này, người trung, hạ căn nhiều, bậc thượng căn rất ít, nếu muốn đi đến thành quả giải thoát một cách chắc chắn, tất phải chú tâm về Tịnh độ pháp môn. Đây do bởi lòng đại bi của Phật, Tổ, vì quán thấy rõ thời cơ, muốn cho chúng sanh sớm thoát nỗi khổ luân hồi, nên trong các Kinh luận đã nhiều phen nhắc nhở. Điều này là một sự kiện rất quan yếu và hết sức xác thực!
Tuy nhiên, như trong Kinh nói: Chúng sanh sở thích và tánh dục có muôn ngàn sai biệt không đồng, nên chư Phật phải mở vô lượng pháp môn mới có thể thâu nhiếp hết được. Vì vậy, Tịnh độ tuy hợp thời cơ, song chỉ thích ứng một phần, không thể hợp với sở thích của tất cả mọi người, nên cần phải có Thiền tông và các môn khác, để cho chúng sanh đều nhờ lợi ích, và Phật pháp được đầy đủ sâu rộng. Cho nên dù đã tùy căn cơ, sở thích của mình mà chọn môn Tịnh độ, thâm ý bút giả vẫn mong cho Thiền tông và các môn khác được lan truyền rộng trên đất nước này. Và các môn khác, nếu đem lại cho chúng sanh dù một điểm lợi ích nhỏ nhen nào, bút giả cũng xin hết lòng tùy hỷ.
Tóm lại, Hữu môn và Không môn nói chung, Thiền tông và Tịnh độ nói riêng, đồng cùng đi về chơn tánh, tuy hai mà một, đều nương tựa để hiển tỏ thành tựu lẫn nhau, và cũng đều rất cần có mặt trên xứ Việt Nam, cho đến cả thế giới. Mấy vị Đại đức sau khi nghe xong đều tỏ ý tán đồng. Nhân tiện, bút giả lại trần thuật bài kệ của Tây Trai lão nhơn để kết luận, và chứng tỏ người xưa cũng đã từng đồng quan điểm ấy:
Tức tâm là độ lý không ngoa Tịnh khác Thiền đâu, vẫn một nhà! Sắc hiển trang nghiêm miền Diệu hữu Không kiêm vô ngại cõi hằng sa Trời Tây sáng đẹp màu châu ngọc Nguyệt Phật bao la đức hải hà Ngoảnh lại đường tu, ai sớm tỉnh? Nỗi thương ác đạo mãi vào ra! THÍCH THIỀN TÂM Cẩn chí
Trích “Bắc Phương Phật Giáo Với Nhân Duyên Tịnh Độ”: • Theo thông lệ ở thiền môn Việt Nam, vào thời khóa đầu hôm, chư Tăng Ni các chùa đều tụng Kinh A Di Đà, tiếp theo niệm hồng danh của Tây phương Tam Thánh (Di Đà, Quan Âm, Thế Chí). Và hàng Phật tử xuất gia hoặc tại gia, khi gặp người đồng đạo, đều chắp tay chào mừng bằng “A Di Đà Phật”.
• Pháp môn Niệm Phật, quả thật là ứng hợp với thời cơ, với bản hoài của Phật mà âm thầm đi sâu vào tiềm thức Phật tử Việt Nam. Chẳng những tại đất nước này, mà ở Trung Hoa, Triều Tiên, nơi nào có Phật giáo lưu hành, là nơi đó hầu hết hàng Phật tử đều không quên câu niệm Phật. Phật giáo đồ ở Nhật Bản cũng có truyền thoại như sau: “Mật tông và Thiên Thai tông để cho hàng quý phái, Thiền tông cho Võ sĩ đạo, và Tịnh Độ tông cho hạng bình dân”. Mà bình dân là hạng chiếm đa số. Xem thế thì biết ở các xứ Bắc tông Phật giáo, những người xưng niệm danh hiệu Phật A Di Đà chiếm phần tối đa. Nhưng tại sao lại có sự kiện như thế?
Tiết 2 - Những Huyền Ký Về Tịnh Độ • Trong Kinh Vô Lượng Thọ, Đức Thích Tôn có lời huyền ký: “Đời tương lai Kinh - Đạo diệt hết, Ta dùng lòng từ bi thương xót, riêng lưu trụ Kinh này (Vô Lượng Thọ Kinh) trong khoảng một trăm năm. Nếu chúng sanh nào gặp Kinh này, tùy ý sở nguyện, đều được đắc độ”. (Đương lai chi thế, Kinh Đạo diệt tận, ngã dĩ từ bi ai mẫn, đặc lưu thử Kinh chỉ trụ bá tuế. Kỳ hữu chúng sanh tri tư Kinh giả, tùy ý sở nguyện, giai khả đắc độ – Vô Lượng Thọ Kinh).
• Nơi Kinh Đại Tập, Đức Thế Tôn đã bảo: “Trong thời mạt pháp, ức ức người tu hành, ít có kẻ nào đắc đạo, chi nương theo Pháp môn Niệm Phật mà thoát luân hồi”. (Mạt pháp ức ức nhơn tu hành, hãn nhứt đắc đạo, chỉ y Niệm Phật Pháp môn, đắc liễu sanh tử – Đại Tập Kinh)
• Ngài Thiên Như Thiền sư, sau khi đắc đạo, cũng đã khuyên dạy: “Mạt pháp về sau, các Kinh diệt hết, chỉ còn lưu bốn chữ A Di Đà Phật để cứu độ chúng sanh. Nếu kẻ nào không tin, tất sẽ bị đọa địa ngục”. (Mạt pháp chi hậu, chư Kinh diệt tận, chỉ lưu A Di Đà Phật tử tự cứu độ chúng sanh. Kỳ bất tín giả, ưng đọa địa ngục Thiên Như ký ngữ). Bởi đời mạt pháp về sau khi các Kinh đều ẩn diệt, chúng sanh căn cơ đã yếu kém, ngoài câu niệm Phật, lại không biết pháp môn nào khác để tu trì. Nếu không tin câu niệm Phật mà tu hành, tất phải bị luân hồi. Và trong nẻo luân hồi, việc lành khó tạo, điều ác dễ làm, nên sớm muộn gì cũng sẽ bị đọa địa ngục.
• Ấn Quang Pháp sư, một bậc cao Tăng cận đại ở Trung Hoa, cũng đã bảo: “Thời mạt pháp đời nay, chúng sanh nghiệp nặng tâm tạp. Nếu ngoài môn Niệm Phật mà tu các pháp khác, nơi phần gieo trí huệ phước đức căn lành thì có, nơi phần liễu thoát luân hồi trong hiện thế thì không. Tuy có một vài vị cao đức hiện những kỳ tích phi thường, song đó đều là những bậc Bồ-tát nương theo bản nguyện mà làm mô phạm để dẫn dắt chúng sanh đời mạt pháp, như trong Kinh Lăng Nghiêm đã nói. Nhưng các vị ấy cũng chỉ vừa theo trình độ chúng sanh mà thị hiện ngộ đạo chớ không phải chứng đạo. Chỉ riêng Pháp môn Tịnh độ, tuy ít người tu chứng được Niệm Phật Tam muội như khi xưa, nhưng có thể nương theo nguyện lực của mình và bản nguyện của Phật A Di Đà, mà đới nghiệp vãng sanh về cõi Tây phương Cực Lạc. Khi về cõi ấy rồi thì không còn luân hồi, không bị thối chuyển, lần lần tu tập cho đến lúc chứng quả Vô sanh”.
• Những lời huyền ký như trên cho chúng ta thấy pháp môn Niệm Phật rất hợp với nhân duyên thời tiết, và trình độ căn cơ chúng sanh đời nay. Vì thế, Đức Như Lai mới dùng nguyện lực bi mẫn lưu trụ Kinh Vô Lượng Thọ để khuyến hóa về môn Niệm Phật. Lại, chư Bồ-tát, Tổ sư cũng khởi lòng hoằng nguyện thương xót, tùy theo thời cơ, chỉ dạy Pháp môn Tịnh độ để cứu vớt chúng sanh. Do những sức nguyện ấy, mà môn Tịnh độ được phổ cập trong phần đông quần chúng.
Tiết 3 - Sự Chuyển Hướng Thiền Sang Tịnh • Từ xưa, môn Thiền trực chỉ rất thịnh hành ở Trung Hoa, Triều Tiên và Nhật Bản. Nước Việt Nam ta dân tánh giàu về trực giác, lại được ảnh hưởng bởi Phật giáo Trung Quốc, nên khi xưa Thiền tông hầu như ở ngôi vị độc tôn. Nhứt là vào đời Lý, Trần, Tăng Ni có cả nửa thiên hạ và hầu hết đều tu thiền. Thời ấy Phật giáo ở Việt Nam cực thịnh, nhiều cảnh già lam Tăng chúng vân tập rất đông. Bởi thế, nên mới có lời truyền ngữ: “Tăng phòng tam thiên ốc, sái tảo thất thập phư”. Câu này nói lên sự hưng thịnh của Phật giáo bấy giờ qua ý nghĩa “Phòng chư Tăng nhiều tới ba ngàn gian, mỗi buổi sáng phải dùng đến bảy mươi người mới quét dọn kịp”. Nhưng cơ duyên cũng theo thời mà chuyển biến. Ở Trung Hoa từ đời Tống về sau, chư Tôn túc như các Ngài: Nhứt Nguyên, Thiên Như, Ngẫu Ích, Triệt Ngộ, Liên Trì... sau khi tham ngộ Thiền tông, quán xét thời cơ, vì lòng thương xót lợi sanh, hết sức hoằng dương Pháp môn Tịnh độ. Sự lần lần chuyển hướng từ Thiền sang Tịnh khởi sanh từ lúc đó. Khi ấy có rất nhiều vị Thiền đức khác tuy bên ngoài truyền bá tông Thiền, nhưng bên trong lại mật tu Tịnh độ, để bảo đảm không thối đọa. Đây có thể gọi là thời kỳ Thiền Tịnh song hành. Cho nên trong một ngôi chùa trước kia chỉ có Thiền đường, bây giờ lại thêm Niệm Phật đường để cung ứng cho chư Tăng tu tập. Bắt đầu từ đời Nguyên, Minh, Thanh về sau, thế lực của Thiền tông lần suy kém, bởi ít người tu chứng. Trái lại, môn Niệm Phật lại lần chiếm ưu thế, Tăng tục nhiều kẻ tu Tịnh độ được vãng sanh. Bây giờ tuy Thiền tông vẫn lưu hành, nhưng trên thực tế chính là thời kỳ Tịnh độ đã nắm quyền hướng dẫn. Bởi ảnh hưởng đó mà ở Việt Nam, môn Niệm Phật hầu như phổ cập. Sau này do ảnh hưởng của sự chấn hưng Phật giáo trong nước và sự hoằng hóa của chư Tăng Ni du học từ Nhật Bản và các xứ Nam tông Phật giáo trở về, Thiền tông Việt Nam có lẽ sẽ tái phục. Nhưng sự thật phần đông hành giả duy hợp tu về Giáo như Chỉ quán thiền, hoặc Tứ thiền Bát định, chớ khó nổi tham cứu thoại đầu thực hành môn Thiền trực chỉ của bên Tông như thuở xưa.
• Có kẻ bảo: Căn tánh của ta vị tất chẳng bằng cổ nhân, chỉ tại ta tự khinh nên không cố gắng. Sự tự lực cố gắng tuy lúc nào cũng đáng khuyến khích, nhưng lời này thật ra không đúng. Nếu căn tánh phần đông chẳng kém, tại sao Phật nói có ba thời kỳ: Chánh pháp, Tượng pháp và Mạt pháp? Và tại sao trong các Kinh khác cũng nói đến năm thời kiên cố, từ Chánh pháp kiên cố cho đến Đấu tranh kiến cố? Vả lại, Tam tạng Kinh điển thời nay tăng thêm nhiều và đầy đủ hơn xưa, tại sao người tu chứng tuyệt ít? Có phải do thời nay căn cơ của quần chúng phần đông đều yếu kém chăng? Ấn Quang Đại sư bảo: “Như mùa hạ mặc áo vải, mùa đông mặc áo bông; sự tu hành cũng thế, không thể trái thời tiết cơ duyên được. Dù đức Đạt Ma Tổ sư tái hiện ngay lúc này, nếu muốn hợp thời cơ để cứu độ chúng sanh mau được giải thoát, cũng không có pháp nào hơn môn Niệm Phật”. Thế nên nếu thuyết pháp không hợp cơ, tất chúng sanh bị chìm trong biển khổ. (Thuyết pháp bất đậu cơ, chúng sanh một khổ hải). Kính khuyên các bậc đồng nhơn, tuy tu môn khác, cũng nên lấy Tịnh độ làm chỗ chỉ quy. Còn như nếu thấy mai trắng chẳng kém các vàng, bút giả cũng xin hết lòng tùy hỷ!...