PHẬT HỌC PHỔ THÔNG (BÌA CỨNG - BẢN ĐẸP) - HT THÍCH THIỆN HOATác Giả: HT Thích Thiện Hoa NXB: Hồng Đức & Huệ Quang Khổ Sách: 16x24cm Năm Xuất Bản: 2021 Hình Thức: Bìa Cứng – Ấn Kim Trọn Bộ: 3 QuyểnGL02SÁCH GIÁO LÝ1.600.000đSố lượng: 10 Bộ
PHẬT HỌC PHỔ THÔNG (BÌA CỨNG - BẢN ĐẸP) - HT THÍCH THIỆN HOA
Đôi Lời Thưa Cho Ấn Bản 2021 (Do Thư Viện Huệ Quang Thực Hiện) Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật! Thành kính đảnh lễ cố hòa thượng Thích Thiện Hoa! Phật Học Phổ Thông ra đời gần 70 năm, đến nay vẫn là bộ sách làm hài lòng hầu hết đối với người tham cứu học tập và vẫn chưa có bộ giáo khoa Phật học nào khả dĩ thay thế được. Điều đó, những tưởng đã là một lời giới thiệu huy hoàng cho công trình dày công của Hòa thượng Thích Thiện Hoa. Lần tái bản này, Thư viện Huệ Quang mong hiện được hai điều: Về hình thức, cố gắng tô bồi cho vẻ ngoài của bộ sách một dáng dấp thật trân trọng. Bìa có áo ép kim, có tờ gác giấy mỹ thuật, có hộp đựng chung 3 tập, giấy in tốt, chữ to rõ để người lớn tuổi cũng có thể đọc dễ dàng. Ngoài ra, còn có 52 bản đặc biệt dành cho Thư viện và bạn đọc yêu sách đẹp.
Về nội dung, chúng tôi dùng bản in cuối của Hương Đạo (bản in gần với thời điểm hòa thượng Thích Thiện Hoa viên tịch nhất) xuất bản trước 1975 làm bản đáy, các bản in sau mang tính chất tham khảo. Thư viện chủ trương tôn trọng bản gốc tối đa, chỉ biên tập morat, hạn chế can thiệp vào văn bản, trừ những trường hợp nhân danh, địa danh sai một cách hiển nhiên như: “Bổn Khoa Khoán Viện” (bản Hương Đạo in năm 1964, khóa V, tr. 63, bản Thành hội Phật giáo TP. HCM in năm 1989, Khóa V, tr. 88) hoặc “Đổi Khao Khoán Viên” (Thành hội Phật giáo TP. HCM in năm 1992, Quyển Nhì, tr. 91), chúng tôi sửa thành “Bổn Quả Khoáng Viên”. “Trùng Hương” (bản Hương Đạo in năm 1964, khóa V, tr. 62; bản Thành hội Phật giáo TP. HCM in năm 1989, Khóa V, tr. 88; bản Thành hội Phật giáo TP. HCM in năm 1992, Quyển Nhì, tr. 91), chúng tôi sửa thành “Trình Hương”.
“Chùa Bảo Tự” (bản Hương Đạo in năm 1964, khóa V, tr. 63; bản Thành hội Phật giáo TP. HCM in năm 1989, Khóa V, tr. 88) hay “Chùa Bảo Tự” (bản Thành hội Phật giáo TP. HCM in năm 1992, Quyển Nhì, tr. 91), chúng tôi sửa thành “Chùa Bảo Tư”. “Đông Sơn” (bản Hương Đạo in năm 1964, khóa V, tr. 147; bản Thành hội Phật giáo TP. HCM in năm 1989, Khóa V, tr. 211-212; bản Thành hội Phật giáo TP. HCM in năm 1992, Quyển Nhì, tr. 208), chúng tôi sửa thành “Động Son" v.v. Ấn bản này chúng tôi thêm vào phần Tiểu sử Hòa thượng Thích Thiện Hoa do môn đồ pháp quyến biên soạn, đặt ở cuối Quyển Ba. Chúng tôi xin chân thành tri ân hòa thượng Thích Phước Cẩn, Viện chủ Tổ đình Phước Hậu, là đệ tử của hòa thượng Thích Thiện Hoa đã ưng thuận cho chúng tôi tái bản bộ sách này. Cầu mong việc thực hiện ấn bản lần này mang lại sự lợi lạc cho nhiều người. Mặc dù đã cố gắng gia tâm thực hiện, nhưng bộ sách có dung lượng khá lớn, nên thiếu sót là điều vẫn có thể xảy ra, rất mong nhận được sự góp ý của các bậc cao minh và chư thân hữu gần xa. Huệ Quang, Trọng Xuân Tân Sửu, 2021 Khể thủ - Thích Không Hạnh
LỜI NÓI ĐẦU Đạo Phật truyền vào Việt Nam ta đã trên 15 thế kỷ cho nên phần đông dân chúng nước ta là tín đồ đạo Phật. Dân chúng thường nói “Đạo Phật là đạo của ông bà”, hay “Nhà nào có đốt hương, đều là tín đồ đạo Phật cả…”. Kể về số lượng thì tín đồ Phật giáo ở Việt Nam thật là đông đảo, nhưng xét về phần phẩm, thì chúng ta chưa có thể lạc quan được. Tình trạng phẩm ít, lượng nhiều ấy phát sinh vì nhiều nguyên nhân phức tạp: – Có người theo đạo Phật vì truyền thống của ông cha (ông cha theo đạo Phật, nên con cháu cũng theo). – Có người theo đạo Phật vì cảm tình đối với thân bằng quyến thuộc, hay đối với cái đạo đã chia sẻ những phút vui buồn, thịnh suy của đất nước. – Có người theo đạo Phật, vì mong cầu được tai qua nạn khỏi, hay cầu của, cầu con v.v…
Ngày nay, vẫn biết có một số đông tín đồ đã hiểu đúng giá trị cao siêu và lợi ích rộng lớn của đạo Phật, nhưng cái số ấy không phải là đa số, nếu đem so với cái khối tín đồ hiểu đạo một cách nông cạn, hay sai lạc nói trên. Vì không hiểu một cách thấu đáo đạo Phật, nên lòng tin không được chắc chắn. Mỗi khi gặp một lý thuyết nào lạ, một tôn giáo nào mới, thì họ ùa hòa tin theo, như cây thiếu rễ cái, gió thổi phía nào thì ngã rạp theo phía ấy, thật đáng buồn thương.
Tình trạng buồn thương ấy có thể bổ cứu được, nếu chúng ta có một chương trình dạy Phật pháp bằng chữ Việt. Dân tộc ta là người Việt, ở đất Việt, ăn cơm Việt, nói tiếng Việt, mà kinh sách bằng chữ ngoại quốc; cả triết lý cao sâu của đạo Phật vẫn còn nằm nguyên trong 3 tạng chữ Tàu, thử hỏi có mấy ai đọc được? Như thế thì bảo tín đồ làm sao hiểu biết giáo lý cao sâu của đạo Phật và lòng tin làm sao vững chắc được? Nóng lòng vì tình cảnh ấy, chúng tôi bạo dạn và cố gắng soạn ra chương trình “Phật học phổ thông”này, mong giúp tín đồ mau hiểu giáo lý, thấy được chỗ quí báu của đạo, để cho lòng tin được chơn chánh và vững bền.
Chúng tôi tự biết mình đức bạc tài sơ, chưa đủ khả năng làm việc vĩ đại này. Nhưng nếu do dự và nhún nhường mãi, rồi suốt đời cũng chẳng làm được gì. Chi bằng cứ cố gắng hy sinh đắp trước con đường đất, để cho các bực có tài đức sau này sửa chữa lại, rồi cán đá và tráng nhựa. Chương trình “Phật học phổ thông” có mục đích xây dựng cho tín đồ có căn bản giáo lý, hiểu biết Phật pháp từ thấp đến cao, lấy Ngũ thừa Phật giáo làm nền tảng.
Từ khóa thứ nhứt đến khóa thứ tư, chúng tôi đã soạn hết Ngũ thừa Phật giáo. Khi tín đồ đã hiểu giáo lý căn bản nói trên rồi các khóa sau, chúng tôi sẽ mở thêm bề rộng và xây thêm bề cao của tòa nhà Phật giáo. Từ khóa thứ V đến khóa thứ XII, tín đồ sẽ tuần tự học về Ðại cương kinh Lăng nghiêm, Viên giác, Duy thức luận và Kim cang, Tâm kinh. Chương trình này, chúng tôi đã soạn từ năm 1953 đến nay và đã xuất bản thành tập, từ tập Phật học phổ thông thứ nhứt cho đến tập Phật học phổ thông thứ 12.
Công việc trên đây là cả một gánh nặng, mà đường lại dài, chúng tôi khẩn thiết yêu cầu những vị nhiệt tâm vì đạo, từ quý vị đại đức Tăng già cho đến các hàng Cư sĩ, kẻ công người của tiếp sức với chúng tôi (hoặc giúp sáng kiến, tài liệu hay tài chánh), cùng nhau xây dựng cho hoàn bị một chương trình Hoằng pháp ở nước nhà, hầu bổ cứu những khuyết điểm và dẹp bỏ những tình tệ trong đạo Phật từ trước đến nay. Chúng tôi chấm dứt trong sự tin tưởng ở lòng nhiệt thành vì đạo của quý vị độc giả xa gần. THÍCH THIỆN HOA
TRÍCH “BÀI THỨ 1: ÐẠO PHẬT - MỞ ĐỀ”: Phật ra đời vì một nhân duyên lớn: “Khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến”. Người đời thường nói một cách hời hợt cho qua chuyện, “Ðạo nào cũng tốt!”. Lời nói ấy, hoặc vì xã giao để cho vui lòng khách, hoặc vì chưa rõ bề trong của các đạo khác nhau thế nào, nên mới nói ra như thế. Thật ra về mục đích thì đạo nào cũng có giá trị của nó, chẳng qua chỉ hơn nhau về từng bậc cao thấp mà thôi. Nhưng mục đích tốt, dù sao, cũng chưa đủ. Ðiều quan trọng là làm sao thực hiện được mục đích ấy, và đem lợi ích rộng lớn cho đời. Thử hỏi nếu đạo nào cũng có giá trị như nhau, thì sao trước đây 2500 năm, trong lúc xứ Ấn Độ đã có 94 thứ đạo rồi, mà đức Phật Thích-Ca còn giáng sinh làm chi nữa?
Chẳng qua các đạo tuy nhiều, mà chưa được toàn “chơn, thiện, mỹ“, nên đức Phật mới ứng thân thị hiện, dạy cho chúng sinh đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác, ngõ hầu giải thoát khỏi khổ sinh tử luân hồi, được tự tại vô ngại như Phật. Kinh Pháp Hoa chép: “Vì một nhân duyên lớn, Phật mới xuất hiện ra đời”. Nhân duyên lớn ấy là gì? Chính là: “Khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến“, để cho chúng sinh được nhờ đó mà đổi mê ra ngộ thấy tánh tỏ tâm, vượt sống khỏi chết, lìa khổ được vui.
CHÁNH ÐỀ: ÐỊNH NGHĨA 1. Chữ Ðạo nghĩa là gì? Chữ đạo có ba nghĩa: Ðạo là con đường; Ðạo là bổn phận; Ðạo là lý tánh tuyệt đối, là bản thể.
A) Ðạo là con đường, như người ta thường dùng trong những chữ: nhân đạo, thiên đạo, địa ngục đạo, ngạ quỷ đạo, súc sinh đạo. Phàm là con đường thì có tốt, xấu, có thiện, ác v.v…Theo đạo Phật, hễ còn trong vòng đối đãi, thì không thể gọi hoàn toàn rốt ráo.
B) Ðạo là bổn phận, như người ta thường dùng những chữ: đạo vua tôi, đạo thầy trò, đạo vợ chồng v.v… Phàm là bổn phận thì thường chịu ảnh hưởng của phong tục hay tập quán. Phong tục và tập quán của nước này không giống nước kia. Vì vậy, chữ đạo là bổn phận cũng chưa đúng với nghĩa chữ đạo mà nhà Phật muốn nói.
C) Ðạo là lý tánh tuyệt đối, là bản thể, nó lìa nói năng, không thể nghĩ bàn. Ðức Lão tử nói: “Ðạo mà nói ra được, không phải là đạo”. Xưa có người hỏi một vị tổ sư: “Ðạo là gì?”. Tổ sư đáp: “Trước Phật Oai-âm-vương, không có tên Phật và chúng sinh, lúc ấy chính là đạo”. Chữ đạo của nhà Phật chính là đồng nghĩa với bản thể vậy.
2. Chữ Phật nghĩa là gì? Chữ Phật, nói cho đúng tiếng Phạn là Bouddha (Phật Ðà). Người Trung Hoa dịch nghĩa là Giác Giả, (bậc đã giác ngộ, sáng suốt hoàn toàn). Giác có ba bậc:
A) Tự giác: Nghĩa là tự mình giác ngộ hoàn toàn do phước huệ và công phu tu hành, khác với phàm phu là những người còn mê muội, bị luân hồi trong cõi trần lao, khổ hải.
B) Giác tha: Nghĩa là mình đã giác ngộ, lại đem phương pháp giác ngộ ấy dạy cho những người tu hành được giác ngộ như mình. Người tu theo Tiểu thừa không thể có được giác tha, vì chỉ lo giải thoát cho mình. Chỉ người tu theo Ðại thừa mới có được giác tha, nghĩa là giác ngộ cho hết thảy chúng sinh đang chìm đắm.
C) Giác hạnh viên mãn: Nghĩa là giác ngộ hoàn toàn đầy đủ cho mình và cho người. Những bậc Bồ tát, tuy đã giác ngộ cho mình và cho người, nhưng công hạnh chưa viên mãn, nên chưa gọi được là “Giác hạnh viên mãn”. Chỉ có Phật mới được gọi là Giác hạnh viên mãn.
Chữ Phật là một danh từ chung để gọi những bậc đã tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn, chứ không phải là một danh từ riêng để gọi một người nào nhất định. Ai tu hành được chứng quả như đã nói trên đều được gọi là Phật cả.
3. Đạo Phật nghĩa là gì? Theo những định nghĩa về chữ Ðạo và chữ Phật đã nói trên, chúng ta có thể giải thích chữ đạo Phật như sau: – Đạo Phật là con đường chân chánh, hoàn toàn sáng suốt đưa đến bản thể của sự vật, là lý tánh tuyệt đối, lìa tất cả hư vọng phân biệt, mà các đấng giác ngộ hoàn toàn đã phát minh ra. – Đạo Phật gồm tất cả tự lợi và lợi tha, tự giác, giác tha và có công hạnh độ mình, độ người được hoàn toàn thành tựu, rốt ráo viên mãn.
II. ĐẠO PHẬT CÓ TỪ HỒI NÀO? Có hai nghĩa: – Ðứng về phương diện bản thể mà xét thì đạo Phật có từ vô thỉ (nghĩa là không có đầu mối, không có giới hạn ở trong thời gian). Vì đạo Phật là bản tánh sáng suốt của chúng sinh, nên có chúng sinh là có đạo Phật; mà chúng sinh đã có từ vô thỉ thì đạo Phật cũng có từ vô thỉ. – Ðứng về phương diện lịch sử và hạn cuộc trong thế giới này mà nói, thì đạo Phật đã có từ 2501 năm nay (tính đến năm 1957), trước Thiên Chúa giáo 544 năm.
III. AI KHAI SÁNG RA ĐẠO PHẬT? Tín đồ đạo Phật cần phải biết lịch sử đức giáo chủ của mình. Dưới đây, xin kể sơ lược những điểm chính của đời đức giáo chủ, người đã khai sáng ra đạo Phật, tức là đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni. Ðức Phật Thích-Ca Mâu-Ni, nguyên là thái tử nước Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavastu) xứ Trung Ấn Ðộ, Phụ hoàng tên Tịnh-Phạn Vương Ðầu-Ðà-Na (Sudhodana); Mẫu hoàng tên là Ma-Da (Maya). Họ Ngài là Kiều-Ðáp-Ma, xưa dịch là Cù-Đàm, tên Ngài là Tất-Ðạt-Ða (Shidartha). Còn chữ Thích-Ca (Sakya), Tàu dịch là Năng Nhơn: Năng là năng lực, Nhơn là từ bi. Mâu-Ni (Muni) nghĩa là Tịch Mặc: Tịch là yên lặng, không bị khổ vui làm động tâm; Mặc là lặng lẽ, không bị phiền não khuấy rối, độ mình độ người, công đức đầy đủ.
Lúc nhỏ Ngài có trí tuệ sáng suốt và tài năng phi thường. Lớn lên nhìn thấy nhân sinh thống khổ, thế cuộc vô thường, nên Ngài cương quyết xuất gia tu hành, tìm đường giải thoát cho mình và cho người, ngõ hầu đưa tất cả chúng sinh lên bờ giác ngộ. Sau sáu năm tu khổ hạnh trong núi Tuyết (Hymalaya), Ngài thấy tu khổ hạnh ép xác như thế, không thể đạt được chân lý, nên Ngài đi qua núi Koda, ngồi dưới gốc cây bồ đề (Tất-bát-la, dịch âm theo tiếng Ấn Ðộ) và thề rằng: “Nếu ta không thành đạo, thì dù thịt nát xương tan, ta cũng quyết không đứng dậy khỏi chỗ này”. Với chí hùng dũng cương quyết ấy, sau 49 ngày tư duy, Ngài thấy rõ chân tướng của vũ trụ nhân sinh và chứng đạo Bồ đề. Sau khi thành đạo, Ngài chu du khắp xứ, thuyết pháp độ sinh, để chúng sinh chuyển mê thành ngộ, lìa khổ được vui. Suốt thời gian 49 năm, như một vị lương y đại tài, xem bịnh cho thuốc, Ngài đã dắt dẫn chúng sinh lên đường hạnh phúc và vạch cho mọi người con đường giác ngộ giải thoát. Ðến 80 tuổi, Ngài nhập Niết-bàn ở thành Câu-thi-na, trong rừng Ta-la (Song thọ). Lúc bấy giờ, nhằm ngày rằm tháng 2 âm lịch…
CỐ HÒA THƯỢNG THÍCH THIỆN HOA (1918 – 1973) Hòa thượng pháp danh Thiện Hoa, hiệu Hoàn Tuyên, sanh ngày 07 tháng 8 năm Mậu Ngọ (1918), tại làng Tân Quí, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh. Vì Quy y từ thuở ấu thơ, Ngài lấy pháp danh làm thế danh, nên húy là Trần Thiện Hoa.
I. THÂN THẾ: Hòa thượng pháp danh Thiện Hoa, hiệu Hoàn Tuyên, sanh ngày 07 tháng 8 năm Mậu Ngọ (1918), tại làng Tân Quí, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh. Vì Quy y từ thuở ấu thơ, Ngài lấy pháp danh làm thế danh, nên húy là Trần Thiện Hoa. Thân phụ Ngài là ông Trần Văn Thê, pháp danh Thiện Huệ, thân mẫu là bà Nguyễn Thị Sáu pháp danh Diệu Tịnh. Ngài là con út trong gia đình tám anh chị em, ba người anh chị của Ngài cũng đã xuất gia đầu Phật. Cả gia đình Ngài đều Quy y với Tổ Chí Thiền chùa Phi Lai núi Voi, Châu Đốc, pháp danh Thiện Hoa, húy Hồng Nở là do Tổ đặt cho Ngài. Ngoài công tác Phật sự đối với Giáo hội, Hòa thượng còn dành nhiều thời gian viết sách, dịch kinh. Qua đó, Ngài đã để lại rất nhiều tác phẩm, được xem là những nấc thang giáo lý có giá trị, đặt nền tảng học Phật cho Tăng Tín đồ như: – Phật học Phổ thông (12 quyển) – Bản đồ tu Phật (10 quyển) – Duy thức học (6 quyển) – Phật học giáo khoa các trường Bồ Đề – Giáo lý dạy Gia đình Phật tử – Nghi thức tụng niệm – Bài học Ngàn vàng (8 tập) – Đại cương Kinh Lăng Nghiêm – Kinh Viên Giác lược giải – Kinh Kim Cang – Tâm Kinh – Luận Đại Thừa Khởi Tín – Luận Nhơn Minh Và các loại Tạp luận, Sự tích v.v… Tổng cộng có 8 loại chuyên đề, bao gồm 80 quyển.
II. THỜI KỲ VIÊN TỊCH: Năm 1973, bệnh tình càng nặng, Ngài phải giải phẫu và không trở dậy được nữa. Cho đến ngày 20 tháng chạp năm Nhâm Tý, nhằm ngày 23 tháng giêng năm 1973, Ngài đã an lành viên tịch, thọ 55 tuổi đời và 26 tuổi hạ.
TỔNG MỤC LỤC (12 KHÓA): Lời Nói Đầu QUYỂN 1 Khóa Thứ Nhất: Chú Trọng Về Nhơn Thừa Phật Giáo (10 Bài) Khóa Thứ Hai: Chú Trọng Về Thiên Thừa Phật Giáo (10 Bài) Khóa Thứ Ba: Chú Trọng Về Thinh Văn Thừa Phật Giáo (10 Bài) Khóa Thứ Tư: Chú Trọng Về Duyên Giác Thừa Và Bồ-Tát Thừa Phật Giáo (10 Bài) QUYỂN 2 Khóa Thứ Năm: Lịch Sử Truyền Bá Phật Giáo, 10 Tôn Phái Và Vũ Trụ, Nhơn Sanh (10 Bài) Khóa Thứ Sáu: Đại Cương Kinh Lăng-Nghiêm (8 Bài) Khóa Thứ Bảy: Đại Cương Kinh Lăng-Nghiêm (8 Bài) Khóa Thứ Tám: Toàn Bộ Kinh Viên Giác (12 Bài) QUYỂN 3 Khóa Thứ Chín: Duy Thức Học Và Nhơn Minh Luận Khóa Thứ Mười Và Mười Một: Luận Đại Thừa Khởi Tín Khóa Thứ Mười Hai: Kinh Kim Cang Và Tâm Kinh