PHẬT HỌC PHỔ THÔNG - HT THÍCH THIỆN HOATác Giả: HT Thích Thiện Hoa NXB: Tôn Giáo Khổ: 14,5x20,5cm Năm XB: 2018 Hình Thức: Bìa Cứng Quyển 1: 654 Trang – Độ Dày: 3,7cm Quyển 2: 843 Trang – Độ Dày: 4,5cm Quyển 3: 670 Trang – Độ Dày: 3,7cmPHPTSÁCH GIÁO LÝ310.000đSố lượng: 1000017 Bộ
LỜI NÓI ĐẦU Đạo Phật truyền vào Việt Nam ta đã trên 15 thế kỷ cho nên phần đông dân chúng nước ta là tín đồ đạo Phật. Dân chúng thường nói “Đạo Phật là đạo của ông bà”, hay “Nhà nào có đốt hương, đều là tín đồ đạo Phật cả…”. Kể về số lượng thì tín đồ Phật giáo ở Việt Nam thật là đông đảo, nhưng xét về phần phẩm, thì chúng ta chưa có thể lạc quan được. Tình trạng phẩm ít, lượng nhiều ấy phát sinh vì nhiều nguyên nhân phức tạp:
– Có người theo đạo Phật vì truyền thống của ông cha (ông cha theo đạo Phật, nên con cháu cũng theo). – Có người theo đạo Phật vì cảm tình đối với thân bằng quyến thuộc, hay đối với cái đạo đã chia sẻ những phút vui buồn, thịnh suy của đất nước. – Có người theo đạo Phật, vì mong cầu được tai qua nạn khỏi, hay cầu của, cầu con v.v…
Ngày nay, vẫn biết có một số đông tín đồ đã hiểu đúng giá trị cao siêu và lợi ích rộng lớn của đạo Phật, nhưng cái số ấy không phải là đa số, nếu đem so với cái khối tín đồ hiểu đạo một cách nông cạn, hay sai lạc nói trên. Vì không hiểu một cách thấu đáo đạo Phật, nên lòng tin không được chắc chắn. Mỗi khi gặp một lý thuyết nào lạ, một tôn giáo nào mới, thì họ ùa hòa tin theo, như cây thiếu rễ cái, gió thổi phía nào thì ngã rạp theo phía ấy, thật đáng buồn thương.
Tình trạng buồn thương ấy có thể bổ cứu được, nếu chúng ta có một chương trình dạy Phật pháp bằng chữ Việt. Dân tộc ta là người Việt, ở đất Việt, ăn cơm Việt, nói tiếng Việt, mà kinh sách bằng chữ ngoại quốc; cả triết lý cao sâu của đạo Phật vẫn còn nằm nguyên trong 3 tạng chữ Tàu, thử hỏi có mấy ai đọc được? Như thế thì bảo tín đồ làm sao hiểu biết giáo lý cao sâu của đạo Phật và lòng tin làm sao vững chắc được? Nóng lòng vì tình cảnh ấy, chúng tôi bạo dạn và cố gắng soạn ra chương trình “Phật học phổ thông” này, mong giúp tín đồ mau hiểu giáo lý, thấy được chỗ quí báu của đạo, để cho lòng tin được chơn chánh và vững bền.
Chúng tôi tự biết mình đức bạc tài sơ, chưa đủ khả năng làm việc vĩ đại này. Nhưng nếu do dự và nhún nhường mãi, rồi suốt đời cũng chẳng làm được gì. Chi bằng cứ cố gắng hy sinh đắp trước con đường đất, để cho các bực có tài đức sau này sửa chữa lại, rồi cán đá và tráng nhựa. Chương trình “Phật học phổ thông” có mục đích xây dựng cho tín đồ có căn bản giáo lý, hiểu biết Phật pháp từ thấp đến cao, lấy Ngũ thừa Phật giáo làm nền tảng.
Từ khóa thứ nhứt đến khóa thứ tư, chúng tôi đã soạn hết Ngũ thừa Phật giáo. Khi tín đồ đã hiểu giáo lý căn bản nói trên rồi các khóa sau, chúng tôi sẽ mở thêm bề rộng và xây thêm bề cao của tòa nhà Phật giáo. Từ khóa thứ V đến khóa thứ XII, tín đồ sẽ tuần tự học về Ðại cương kinh Lăng nghiêm, Viên giác, Duy thức luận và Kim cang, Tâm kinh. Chương trình này, chúng tôi đã soạn từ năm 1953 đến nay và đã xuất bản thành tập, từ tập Phật học phổ thông thứ nhứt cho đến tập Phật học phổ thông thứ 12.
Công việc trên đây là cả một gánh nặng, mà đường lại dài, chúng tôi khẩn thiết yêu cầu những vị nhiệt tâm vì đạo, từ quý vị đại đức Tăng già cho đến các hàng Cư sĩ, kẻ công người của tiếp sức với chúng tôi (hoặc giúp sáng kiến, tài liệu hay tài chánh), cùng nhau xây dựng cho hoàn bị một chương trình Hoằng pháp ở nước nhà, hầu bổ cứu những khuyết điểm và dẹp bỏ những tình tệ trong đạo Phật từ trước đến nay. Chúng tôi chấm dứt trong sự tin tưởng ở lòng nhiệt thành vì đạo của quý vị độc giả xa gần.
THÍCH THIỆN HOA
BÀI THỨ 1: ÐẠO PHẬT A. MỞ ĐỀ
Phật ra đời vì một nhân duyên lớn: “Khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến”. Người đời thường nói một cách hời hợt cho qua chuyện, “Ðạo nào cũng tốt!”. Lời nói ấy, hoặc vì xã giao để cho vui lòng khách, hoặc vì chưa rõ bề trong của các đạo khác nhau thế nào, nên mới nói ra như thế. Thật ra về mục đích thì đạo nào cũng có giá trị của nó, chẳng qua chỉ hơn nhau về từng bậc cao thấp mà thôi. Nhưng mục đích tốt, dù sao, cũng chưa đủ. Ðiều quan trọng là làm sao thực hiện được mục đích ấy, và đem lợi ích rộng lớn cho đời. Thử hỏi nếu đạo nào cũng có giá trị như nhau, thì sao trước đây 2500 năm, trong lúc xứ Ấn Độ đã có 94 thứ đạo rồi, mà đức Phật Thích-Ca còn giáng sinh làm chi nữa?
Chẳng qua các đạo tuy nhiều, mà chưa được toàn “chơn, thiện, mỹ“, nên đức Phật mới ứng thân thị hiện, dạy cho chúng sinh đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác, ngõ hầu giải thoát khỏi khổ sinh tử luân hồi, được tự tại vô ngại như Phật. Kinh Pháp Hoa chép: “Vì một nhân duyên lớn, Phật mới xuất hiện ra đời”. Nhân duyên lớn ấy là gì? Chính là: “Khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến“, để cho chúng sinh được nhờ đó mà đổi mê ra ngộ thấy tánh tỏ tâm, vượt sống khỏi chết, lìa khổ được vui.
B. CHÁNH ÐỀ I. ÐỊNH NGHĨA
1. Chữ Ðạo nghĩa là gì? Chữ đạo có ba nghĩa: Ðạo là con đường; Ðạo là bổn phận; Ðạo là lý tánh tuyệt đối, là bản thể.
A) Ðạo là con đường, như người ta thường dùng trong những chữ: nhân đạo, thiên đạo, địa ngục đạo, ngạ quỷ đạo, súc sinh đạo. Phàm là con đường thì có tốt, xấu, có thiện, ác v.v…Theo đạo Phật, hễ còn trong vòng đối đãi, thì không thể gọi hoàn toàn rốt ráo.
B) Ðạo là bổn phận, như người ta thường dùng những chữ: đạo vua tôi, đạo thầy trò, đạo vợ chồng v.v… Phàm là bổn phận thì thường chịu ảnh hưởng của phong tục hay tập quán. Phong tục và tập quán của nước này không giống nước kia. Vì vậy, chữ đạo là bổn phận cũng chưa đúng với nghĩa chữ đạo mà nhà Phật muốn nói.
C) Ðạo là lý tánh tuyệt đối, là bản thể, nó lìa nói năng, không thể nghĩ bàn. Ðức Lão tử nói: “Ðạo mà nói ra được, không phải là đạo”. Xưa có người hỏi một vị tổ sư: “Ðạo là gì?”. Tổ sư đáp: “Trước Phật Oai-âm-vương, không có tên Phật và chúng sinh, lúc ấy chính là đạo”. Chữ đạo của nhà Phật chính là đồng nghĩa với bản thể vậy.
2. Chữ Phật nghĩa là gì? Chữ Phật, nói cho đúng tiếng Phạn là Bouddha (Phật Ðà). Người Trung Hoa dịch nghĩa là Giác Giả, (bậc đã giác ngộ, sáng suốt hoàn toàn). Giác có ba bậc:
A) Tự giác: Nghĩa là tự mình giác ngộ hoàn toàn do phước huệ và công phu tu hành, khác với phàm phu là những người còn mê muội, bị luân hồi trong cõi trần lao, khổ hải.
B) Giác tha: Nghĩa là mình đã giác ngộ, lại đem phương pháp giác ngộ ấy dạy cho những người tu hành được giác ngộ như mình. Người tu theo Tiểu thừa không thể có được giác tha, vì chỉ lo giải thoát cho mình. Chỉ người tu theo Ðại thừa mới có được giác tha, nghĩa là giác ngộ cho hết thảy chúng sinh đang chìm đắm.
C) Giác hạnh viên mãn: Nghĩa là giác ngộ hoàn toàn đầy đủ cho mình và cho người. Những bậc Bồ tát, tuy đã giác ngộ cho mình và cho người, nhưng công hạnh chưa viên mãn, nên chưa gọi được là “Giác hạnh viên mãn”. Chỉ có Phật mới được gọi là Giác hạnh viên mãn.
Chữ Phật là một danh từ chung để gọi những bậc đã tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn, chứ không phải là một danh từ riêng để gọi một người nào nhất định. Ai tu hành được chứng quả như đã nói trên đều được gọi là Phật cả.
3. Đạo Phật nghĩa là gì? Theo những định nghĩa về chữ Ðạo và chữ Phật đã nói trên, chúng ta có thể giải thích chữ đạo Phật như sau: – Đạo Phật là con đường chân chánh, hoàn toàn sáng suốt đưa đến bản thể của sự vật, là lý tánh tuyệt đối, lìa tất cả hư vọng phân biệt, mà các đấng giác ngộ hoàn toàn đã phát minh ra. – Đạo Phật gồm tất cả tự lợi và lợi tha, tự giác, giác tha và có công hạnh độ mình, độ người được hoàn toàn thành tựu, rốt ráo viên mãn.
II. ĐẠO PHẬT CÓ TỪ HỒI NÀO?
Có hai nghĩa: – Ðứng về phương diện bản thể mà xét thì đạo Phật có từ vô thỉ (nghĩa là không có đầu mối, không có giới hạn ở trong thời gian). Vì đạo Phật là bản tánh sáng suốt của chúng sinh, nên có chúng sinh là có đạo Phật; mà chúng sinh đã có từ vô thỉ thì đạo Phật cũng có từ vô thỉ. – Ðứng về phương diện lịch sử và hạn cuộc trong thế giới này mà nói, thì đạo Phật đã có từ 2501 năm nay (tính đến năm 1957), trước Thiên Chúa giáo 544 năm.
III. AI KHAI SÁNG RA ĐẠO PHẬT?
Tín đồ đạo Phật cần phải biết lịch sử đức giáo chủ của mình. Dưới đây, xin kể sơ lược những điểm chính của đời đức giáo chủ, người đã khai sáng ra đạo Phật, tức là đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni. Ðức Phật Thích-Ca Mâu-Ni, nguyên là thái tử nước Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavastu) xứ Trung Ấn Ðộ, Phụ hoàng tên Tịnh-Phạn Vương Ðầu-Ðà-Na (Sudhodana); Mẫu hoàng tên là Ma-Da (Maya). Họ Ngài là Kiều-Ðáp-Ma, xưa dịch là Cù-Đàm, tên Ngài là Tất-Ðạt-Ða (Shidartha). Còn chữ Thích-Ca (Sakya), Tàu dịch là Năng Nhơn: Năng là năng lực, Nhơn là từ bi. Mâu-Ni (Muni) nghĩa là Tịch Mặc: Tịch là yên lặng, không bị khổ vui làm động tâm; Mặc là lặng lẽ, không bị phiền não khuấy rối, độ mình độ người, công đức đầy đủ.
Lúc nhỏ Ngài có trí tuệ sáng suốt và tài năng phi thường. Lớn lên nhìn thấy nhân sinh thống khổ, thế cuộc vô thường, nên Ngài cương quyết xuất gia tu hành, tìm đường giải thoát cho mình và cho người, ngõ hầu đưa tất cả chúng sinh lên bờ giác ngộ. Sau sáu năm tu khổ hạnh trong núi Tuyết (Hymalaya), Ngài thấy tu khổ hạnh ép xác như thế, không thể đạt được chân lý, nên Ngài đi qua núi Koda, ngồi dưới gốc cây bồ đề (Tất-bát-la, dịch âm theo tiếng Ấn Ðộ) và thề rằng: “Nếu ta không thành đạo, thì dù thịt nát xương tan, ta cũng quyết không đứng dậy khỏi chỗ này”. Với chí hùng dũng cương quyết ấy, sau 49 ngày tư duy, Ngài thấy rõ chân tướng của vũ trụ nhân sinh và chứng đạo Bồ đề. Sau khi thành đạo, Ngài chu du khắp xứ, thuyết pháp độ sinh, để chúng sinh chuyển mê thành ngộ, lìa khổ được vui. Suốt thời gian 49 năm, như một vị lương y đại tài, xem bịnh cho thuốc, Ngài đã dắt dẫn chúng sinh lên đường hạnh phúc và vạch cho mọi người con đường giác ngộ giải thoát. Ðến 80 tuổi, Ngài nhập Niết-bàn ở thành Câu-thi-na, trong rừng Ta-la (Song thọ). Lúc bấy giờ, nhằm ngày rằm tháng 2 âm lịch.
IV. GIÁO LÝ CỦA ĐẠO PHẬT NHƯ THẾ NÀO?
Giáo lý của đạo Phật gồm trong 3 tạng kinh điển là Kinh, Luật, Luận.
1. Kinh: Kinh là những lời của đức Phật Thích-Ca đã nói khi còn tại thế, để dạy chúng sinh dứt trừ phiền não và đạt đến quả Niết-bàn. 2. Luật: Luật là những giới luật mà Phật đã chế ra cho các đệ tử, để các đệ tử răn chừa các điều dữ, tu tập các điều lành, trau dồi thân tâm cho thanh tịnh. 3. Luận: Luận là những sách phần nhiều do các đệ tử Phật làm ra để bàn giải rõ ràng nghĩa lý mầu nhiệm trong kinh, luật hoặc quyết đoán tánh, tướng của các pháp, phân biệt những lẽ phải chẳng của chánh đạo và tà đạo, khiến cho người đời khỏi nhận lầm phải trái, chánh tà.
Tam Tạng Kinh Điển Lại Chia Làm Hai Loại Là Ðại Thừa Và Tiểu Thừa.
Chữ Thừa nghĩa là chở, có chỗ cũng gọi là thặng, nghĩa là cổ xe. Thừa hay thặng đều có hàm ý nghĩa là: Giáo lý của Phật có công năng như một chiếc xe, đưa chúng sinh từ nơi cõi trần lao phiền não đến cảnh giới an vui thanh tịnh, từ biển khổ luân hồi đến Niết-bàn, giải thoát. Ðại thừa như là cỗ xe lớn, có thể chở nhiều người trong một lúc; trái lại Tiểu thừa như là một cỗ xe nhỏ, chỉ chở mỗi lúc một vài người mà thôi. Sở dĩ giáo lý đạo Phật chia ra làm Ðại thừa và Tiểu thừa như thế, vì căn cơ và nguyện vọng chúng sinh không đồng nhau. Những hạng người nào nhận thấy mình chỉ đủ sức để giải thoát cho riêng phần mình mà thôi, như chiếc xe nhỏ chở được một vài người, thì theo giáo lý Tiểu thừa.
Những hạng người nào tự nhận thấy mình có thể vừa giải thoát cho mình và cho người ra khỏi sinh tử luân hồi, tự nguyện độ mình và người cùng đi đến Niết-bàn, như một cỗ xe lớn, cùng chở trong một lúc được nhiều người, thì theo Ðại thừa. Hạng người này rõ biết phiền não, sinh tử như huyễn hóa, nên không chịu sớm an vui ở quả vị cuối cùng của mình, mà thường độ sinh không bao giờ biết mỏi mệt; và vì nhận thấy chúng sinh và mình đồng một bản thể, cho nên khi chúng sinh còn đau khổ thì mình chưa có thể an vui được.
V. SỰ TRUYỀN BÁ CỦA ĐẠO PHẬT
Sau khi Phật Thích-Ca nhập diệt, hai vị đại đệ tử của Phật là Ngài Ca-Diếp và Ngài A-Nan thay Phật hoằng truyền Phật pháp ở Ấn Độ. Ðó là thời kỳ thứ nhất. Thời kỳ thứ hai do các vị Tổ sư Long Thọ, Mã Minh và Vô Trước lãnh đạo. Thời kỳ thứ ba do các vị Tổ sư Long Trì, Thiện Vô Úy và Liên Hoa Sinh đảm nhiệm. Từ Ấn Ðộ, Phật giáo lan truyền dần vào các nước lân cận, rồi toàn cõi Á Ðông, và cuối cùng toàn cả thế giới. Sự truyền bá này đi theo hai hướng: một hướng về phương Bắc và một hướng về phương Nam. (Xem Lịch sử truyền bá Phật giáo khóa 5)
Về phương Bắc, thì gọi là Bắc phương hay là Bắc tôn Phật giáo, hay Ðại thừa Phật giáo, gồm có những nước: Tây Tạng, Trung Hoa, Mông Cổ, Mãn Châu, Cao Ly, Nhật Bản, Việt Nam v.v… Về phương Nam, thì gọi là Nam phương hay Nam tôn Phật giáo, hay Tiểu thừa Phật giáo, hay Nguyên thủy Phật giáo, gồm có những nước: Tích Lan, Miến Ðiện, Thái Lan, Ai Lao, Cao Miên, Nam Dương v.v… Nhưng hiện nhờ sự giao thông tiện lợi và kinh điển được trao đổi khắp các nước, nên sự chia rẽ giữa Bắc tôn và Nam tôn không còn được rõ ràng như trước: trong Ðại thừa vẫn có Tiểu thừa và trong Tiểu thừa vẫn có Ðại thừa.
VI. SỰ LỢI ÍCH CỦA ĐẠO PHẬT
Mục Đích Của Đạo Phật Là Đem Lại Những Kết Quả Đẹp Đẽ Sau Này Cho Chúng Sinh:
1. Chơn thường: Chúng sinh trôi lăn, lặn hụp trong biển sinh tử luân hồi; chúng sinh sống trong cảnh vô thường, khi trẻ khi già, khi lành khi ốm, khi sống khi chết… đạo Phật đem lại cho người tu hành một quả vị là không bao giờ bị luật vô thường nói trên chi phối.
2. Chơn lạc: Chúng sinh đang sống trong cảnh giới tối tăm, buồn tủi, khổ đau; nếu có vui cũng chỉ vui được trong chốc lát, như người khát, uống nước mặn vào, đỡ khát trong chốc lát, rồi về sau lại càng khát hơn lúc đầu. Đạo Phật có mục đích đem lại cho kẻ tu hành một sự an vui toàn vẹn và bất tận.
3. Chơn ngã: Chúng sinh bị không biết bao nhiêu nghịch cảnh ở chung quanh chi phối, ràng buộc, như kẻ tù tội bị giam hãm trong ngục thất, không bao giờ được tự do hoạt động theo ý muốn của mình. Đạo Phật có mục đích làm cho những người tu hành được giải thoát hoàn toàn ra ngoài những trói buộc nói trên, làm cho con người đầy đủ năng lực để thực hiện ý nguyện tốt đẹp của mình, và sống một cuộc đời an nhiên tự tại.
4. Chơn tịnh: Chúng sinh đang sống trong cảnh giới ô trọc, lấm láp trong bùn nhơ của cõi tục, từ trong tâm hồn cho đến ngoài thể chất. Đạo Phật có mục đích làm cho người tu hành gạn lọc được bao nhiêu ô trọc của cõi đời, được sống một cuộc sống trong trắng, tinh khiết, không vướng chút bận nhơ của trần tục.
Không phải chỉ trong vị lai, đạo phật mới đem lại lợi ích cho đời, ngay trong xã hội hiện tại, đạo phật cũng đem lại nhiều lợi ích quý báu:
– Đạo Phật, nhờ tinh thần từ bi, làm cho xã hội, nhân loại thương yêu nhau hơn. – Đạo Phật, nhờ ánh sáng trí tuệ, làm cho xã hội, nhân loại bớt si mê lầm lạc, thấy được đâu là giá trị thật, đâu là phỉnh phờ, giả dối. – Đạo Phật, nhờ tinh thần bình đẳng tuyệt đối, san bằng được những bất công của xã hội, nhân loại, và làm cho cảnh giới Ta-bà này được sáng sủa, an vui hơn. Ðó là những lợi ích mà đạo Phật đem lại cho cõi đời.
C. KẾT LUẬN
Những lợi ích nói trên quý báu như thế, nhưng sẽ không bao giờ đến với chúng ta, nếu không học và hành theo Phật.
1. Học Phật: Ðức Phật mặc dù là một đấng xuất phàm, thông minh xuất thế, nhưng khi xuất gia Ngài cũng phải học hỏi đêm ngày, hao tốn sức biết bao nhiêu, mới phát huy ra được cái giáo lý nhiệm mầu để lại cho chúng ta. Vậy chúng ta muốn trở thành một Phật tử chân chính thì trước tiên là phải học hỏi như Phật. Chúng ta không chỉ học trong giáo lý của Ngài mà còn học qua đời sống, đức hạnh, hành vi của đời Ngài nữa.
2. Hành theo Phật: Nhưng học mà không tập, không hành, thì chẳng khác gì cái kệ đựng sách, chữ nghĩa kinh sách chất chứa thật nhiều, mà chẳng có ích lợi gì cả. Vậy nên học phải đi đôi với hành. Chúng ta phải cố gắng thực hành cho được những điều đã học, làm cho được những điều mình thấy là hay là phải. Phật đã làm gì, chúng ta phải tập làm lại; Phật đã có những đức tánh từ, bi, hỷ, xả, hoan hỷ, tinh tấn, thanh tịnh… chúng ta cũng cố gắng thực hiện cho được những đức tánh ấy. Có như thế, mới khỏi hổ với hai tiếng Phật tử và mới gọi là đền đáp trong muôn một, ân đức sâu dày của đức Từ phụ Thích-Ca.
MỤC LỤC QUYỂN 1: Khóa 1,2,3,4 Bài thứ 1: ÐẠO PHẬT Bài thứ 2: LƯỢC SỬ ÐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI Bài thứ 3: LƯỢC SỬ ÐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI (tiếp theo) Bài thứ 4: QUY Y TAM BẢO Bài thứ 5: NGŨ GIỚI Bài thứ 6: SÁM HỐI Bài thứ 7: THỜ PHẬT, LẠY PHẬT, CÚNG PHẬT Bài thứ 8: TỤNG KINH, TRÌ CHÚ, NIỆM PHẬT Bài thứ 9: ĂN CHAY Bài thứ 10: BÁT QUAN TRAI GIỚI Khóa II: THIÊN THỪA PHẬT GIÁO Bài thứ 1: BỔN PHẬN CỦA PHẬT TỬ TẠI GIA Bài thứ 2: VU LAN BỒN Bài thứ 3: VÔ THƯỜNG Bài thứ 4: THIỂU DỤC VÀ TRI TÚC Bài thứ 5: NHÂN QUẢ Bài thứ 6: LUÂN HỒI Bài thứ 7: THẬP THIỆN NGHIỆP Bài thứ 8: TỨ NHIẾP PHÁP Bài thứ 9: LỤC HÒA Bài thứ 10: TỊNH ÐỘ Bài thứ 11: LƯỢC SỬ ÐỨC PHẬT A DI ÐÀ VÀ 48 ÐẠI NGUYỆN Khóa III: THANH VĂN THỪA PHẬT GIÁO Bài thứ 1: KHÁI NIỆM TỔNG QUÁT VỀ TỨ DIỆU ÐẾ Bài thứ 2: KHỔ ÐẾ Bài thứ 3: TẬP ÐẾ Bài thứ 4: DIỆT ÐẾ Bài thứ 5: ÐẠO ÐẾ Bài thứ 6: TỨ CHÁNH CẦN Bài thứ 7: TỨ NHƯ Ý TÚC Bài thứ 8: NGŨ CĂN NGŨ LỰC Bài thứ 9: THẤT BỒ ÐỀ PHẦN Bài thứ 10: BÁT CHÁNH ÐẠO Khóa IV: DUYÊN GIÁC VÀ BỒ TÁT THỪA PHẬT GIÁO LỜI CHỈ DẪN TỔNG QUÁT Bài thứ 1: QUÁN SỔ TỨC Bài thứ 2: QUÁN BẤT TỊNH Bài thứ 3: QUÁN TỪ BI Bài thứ 4: QUÁN NHÂN DUYÊN Bài thứ 5: QUÁN GIỚI PHÂN BIỆT Bài thứ 6: LỤC ÐỘ - BỐ THÍ BA LA MẬT & TRÌ GIỚI BA LA MẬT Bài thứ 7: LỤC ÐỘ tiếp theo - TINH TẤN BA LA MẬT & NHẪN NHỤC BA LA MẬT Bài thứ 8: LỤC ÐỘ tiếp theo - THIỀN ĐỊNH BA LA MẬT & TRÍ HUỆ BA LA MẬT Bài thứ 9: BỐN MÓN TÂM VÔ LƯỢNG Bài thứ 10: NGŨ MINH
MỤC LỤC QUYỂN 2: (Khóa 5,6,7,8)
01 - Lịch Sử Phật Giáo Ấn Độ 02 - Lịch Sử Phật Giáo Trung Hoa 03 - Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam 04 - Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam (Tiếp Theo) 05 - Phong Trào Chấn Hưng Phật Giáo Trên Thế Giới Và Việt Nam Cận Đại 06 - Mười Tông Phái Ở Trung Hoa: Luật Tông, Tịnh Độ Tông, Thiền Tông 07 - Mười Tông Phái Ở Trung Hoa (Tiếp Theo): Pháp-Tướng Tông, Mật Tông, Thiên-Thai Tông 08 - Mười Tông Phái Ở Trung Hoa (Tiếp Theo): Hoa Nghiêm Tông, Tam Luận Tông, Câu-Xá Tông, Thành Thật Tông 09 - Vũ Trụ Quan Phật Giáo 10 - Nhân Sinh Quan Phật Giáo
KHÓA 6 (ĐẠI CƯƠNG KINH LĂNG NGHIÊM)
Thay Lời Tựa Bài Thứ Nhất Bài 2: Bẩy Đoạn Phật Hỏi Về Tâm Bài 3: I. Anan Cầu Phật Dạy Phương Pháp Tu Hành Lần Thứ 2 Bài 4: I. Anan Cầu Phật Chỉ Cái Điên Đảo Bài 5: I.- A-Nan Nghi: Nếu “Cái Thấy” Là Mình, Thì Tâm Này Là Ai? Bài 6: I.-A-Nan Không Hiểu Hỏi Phật Bài 7: Hư Không Từ Chơn Tâm Biến Hiện Khóa 7 (Đại Cương Kinh Lăng Nghiêm Tiếp Theo)
Bài 8: Ông Phú Lâu Na Hỏi Phật Hai Câu Quan Trọng Bài 9: Phật Dạy Chân Tâm Phi Tất Cả Tướng Bài 10: A Nan Thuật Lại Chỗ Mình Đã Ngộ Bài 11: Ngài A Nan Hỏi Phật: Trói Cột Ở Chỗ Nào Và Làm Sao Mở Được Bài 12: Ngài A Nan Hỏi Phật Pháp Tu Viên Thông Bài 13: Phật Bảo Ngài Văn Thù Lựa Pháp Tu Viên Thông Bài 14: Phật Dạy Trì Chú Lăng Nghiêm Bài 15: 10 Món Ma Về Thọ Ấm, 10 Món Ma Về Tưởng Ấm Bài 16: 10 Món Ma Về Hành Ấm, 10 Món Ma Về Thức Ấm Khóa 8 (Kinh Viên Giác)
Bài 1: Chương Văn Thù Bài 2: Chương Phổ Hiền Bài 3: Chương Phổ Nhãn Bài 4: Chương Kim Cang Tạng Bài 5: Chương Di Lặc Bồ Tát Bài 6: Chương Thanh Tịnh Huệ Bài 7: Chương Oai Đức Tự Tại Bài 8: Chương Biện Âm Bài 9: Chương Tịnh Chư Nghiệp Chướng Bài 10 Và 11: Chương Phổ Giác & Chương Viên Giác Bài 12: Chương Hiền Thiện Thủ
MỤC LỤC QUYỂN 3: (Khóa 9,10,11,12)
Lời Nói Đầu A. Tập Nhứt: Luận Đại Thừa Trăm Pháp Và Bát Thức Qui Củ Tụng Bài Thứ Nhất: Luận Đại Thừa Trăm Pháp Bài Thứ Hai: Luận Đại Thừa Trăm Pháp Bài Thứ Ba: I. Tâm Vương Bài Thứ Tư: Ý Thức Bài Thứ Năm: Mạt Na Thức Bài Thứ Sáu: A Lại Da Thức Bài Thứ Bảy: Ii. Tâm Sở Bài Thứ Tám: Tuỳ Phiền Não Bài Thứ Chín: Bất Định Tâm Sở – Iii. Sắc Pháp Bài Thứ Mười: Iv. Tâm Bất Tương Ưng Hành Pháp – V. Vô Vi Pháp B. Tập Nhì: Luận A Đà Na Thức Luận A-Đà-Na Thức C. Tập Ba: Duy Thức Tam Thập Tụng Dị Giải: Lời Của Dịch Giả & Lời Tựa Bài Thứ Nhất: Duy Thức Tam Thập Tụng Dị Giải Bài Thứ Hai: Tiếp Theo Bài Thứ Ba: Tiếp Theo Bài Thứ Tư: Tiếp Theo Bài Thứ Năm: Tiếp Theo Bài Thứ Sáu: Giải Thích Các Điều Nghi Bài Thứ Bảy: Tiếp Theo Duy Thức Tam Thập Tụng: Chánh Văn D. Nhơn Minh Luận Bài Học Thuộc Lòng Nhơn Minh Luận Cương Yếu Mục Lục Khóa 10 Và 11
Lời Dịch Giả Chương Thứ Nhất Chương Thứ Hai Chương Thứ Ba Chương Thứ Tư Chương Thứ Năm Mục Lục Khóa 12
Kinh Bát Nhã Toát Yếu: Dịch Bản Kinh Đại Bát Nhã Toát Yếu: Lược Giải Phụ Lục: Một “Sự Nghiệp” Của Đời Tôi
CỐ HÒA THƯỢNG THÍCH THIỆN HOA (1918 – 1973) Hòa thượng pháp danh Thiện Hoa, hiệu Hoàn Tuyên, sanh ngày 07 tháng 8 năm Mậu Ngọ (1918), tại làng Tân Quí, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh. Vì Quy y từ thuở ấu thơ, Ngài lấy pháp danh làm thế danh, nên húy là Trần Thiện Hoa.
I. THÂN THẾ: Hòa thượng pháp danh Thiện Hoa, hiệu Hoàn Tuyên, sanh ngày 07 tháng 8 năm Mậu Ngọ (1918), tại làng Tân Quí, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh. Vì Quy y từ thuở ấu thơ, Ngài lấy pháp danh làm thế danh, nên húy là Trần Thiện Hoa. Thân phụ Ngài là ông Trần Văn Thê, pháp danh Thiện Huệ, thân mẫu là bà Nguyễn Thị Sáu pháp danh Diệu Tịnh. Ngài là con út trong gia đình tám anh chị em, ba người anh chị của Ngài cũng đã xuất gia đầu Phật. Cả gia đình Ngài đều Quy y với Tổ Chí Thiền chùa Phi Lai núi Voi, Châu Đốc, pháp danh Thiện Hoa, húy Hồng Nở là do Tổ đặt cho Ngài. Ngoài công tác Phật sự đối với Giáo hội, Hòa thượng còn dành nhiều thời gian viết sách, dịch kinh. Qua đó, Ngài đã để lại rất nhiều tác phẩm, được xem là những nấc thang giáo lý có giá trị, đặt nền tảng học Phật cho Tăng Tín đồ như:
– Phật học Phổ thông (12 quyển) – Bản đồ tu Phật (10 quyển) – Duy thức học (6 quyển) – Phật học giáo khoa các trường Bồ Đề – Giáo lý dạy Gia đình Phật tử – Nghi thức tụng niệm – Bài học Ngàn vàng (8 tập) – Đại cương Kinh Lăng Nghiêm – Kinh Viên Giác lược giải – Kinh Kim Cang – Tâm Kinh – Luận Đại Thừa Khởi Tín – Luận Nhơn Minh Và các loại Tạp luận, Sự tích v.v… Tổng cộng có 8 loại chuyên đề, bao gồm 80 quyển.
II. THỜI KỲ VIÊN TỊCH:
Năm 1973, bệnh tình càng nặng, Ngài phải giải phẫu và không trở dậy được nữa. Cho đến ngày 20 tháng chạp năm Nhâm Tý, nhằm ngày 23 tháng giêng năm 1973, Ngài đã an lành viên tịch, thọ 55 tuổi đời và 26 tuổi hạ.