LỜI DỊCH GIẢ
Kinh Lăng Già có ba bản dịch từ Phạn sang Hán: Tống dịch, Ngụy dịch, và Đường dịch. Hiện đang phổ biến lưu thông là bản Tống dịch, bản này là người Ấn Độ, đối với Hán văn dịch chưa được thông thạo lắm, nên lời văn đảo qua, lộn lại, có chỗ thì trùng lắp quá dư thừa, dẫu cho nhà Nho tinh thông tiếng Hán cũng cảm thấy khó hiểu. Chúng tôi dịch Kinh này phải tham khảo thêm hai bản dịch đời Ngụy và đời Đường, đồng thời dựa theo quyển Lăng Già Tông Thông của ngài Tăng Phụng Nghi (Cư sĩ kiến tánh đời Minh), xếp lời văn cho xuôi và tăng bổ từ ngữ để sáng tỏ nghĩa Kinh, cũng có lược bỏ vài chỗ quá dư thừa. Đối với những danh từ tiếng Hán hay tiếng Phạn không thể dịch sang tiếng Việt thì chúng tôi ghi chú, còn những câu nghĩa lý quá thâm sâu thì chúng tôi lược giải thêm. Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem kỹ thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn, ngoại đạo có Sở Trụ mà Phật thì Vô Sở Trụ, nếu độc giả xem xét kỹ sẽ tự thấy rõ.
Nói tóm lại, chúng tôi dịch Kinh này rất cố gắng giữ nguyên ý trong bản dịch của ngài Cầu Na Bạt Đà La, từng chữ, từng câu mà sáng tỏ nghĩa Kinh, mong giúp cho người đọc xem thấy dễ hiểu hơn. Nhưng chúng tôi cũng chưa được hài lòng, e vẫn còn có nhiều chỗ sơ sót, kính xin các bậc tiền bối và độc giả từ bi chỉ giáo cho.
----------
THÍCH DUY LỰC QUYỂN THỨ TƯ(lược trích)
Tất cả thịt chúng sanh,
Xưa kia là quyến thuộc.
Hoặc hôi thúi hỗn tạp,
Sanh trưởng nơi bất tịnh.
Hoặc ngửi mùi kinh sợ,
Uống rượu với giết hại.
Và ngũ tân vân vân,
Tu hành nên xa lìa.
Rượt thịt sanh buông luông,
Buông lung sanh mê đắm.
Mê đắm sanh tham dục,
Do đó không nên ăn.
Do ăn sanh tham dục,
Tham dục khiến tâm mê.
Say mê nuôi ái dục,
Sanh tử chẳng giải thoát.
Vì lợi giết chúng sanh,
Dùng tài bắt cá thịt.
Hai thứ gây ác nghiệp,
Chết đọa ngục Kêu La.
Ta thường dạy Phật tử,
Nên dùng những pháp thực.
Chẳng dạy ăn chúng sanh,
Chẳng do nhân tự có.
Ăn thịt gây thù oán,
Do đó không nên ăn.
Giết hại, ăn chúng sanh.
Người tu nên xa lìa.
Mười phương chư Như Lai,
Đều quở trách việc này.
Nếu người tin nhân quả,
Chớ ăn nuốt lẫn nhau.
Chết đọa loài cọp sói,
Thọ sanh thường ngu si.
Đồ tể và thợ ăn,
Khiến cầm thú kinh sợ,
Ắt phải chịu quả báo,
Có tính ham ăn thịt,
Phải đọa loài súc sanh,
Cũng như mèo chồn kia.
Trong các Kinh Đại Thừa,
Như Phược Tượng, Đại Vân.
Cho đến kinh Niết Bàn,
Và Kinh Lăng Già này.
Ta đều khuyến người tu,
Nên đoạn dứt ăn thịt.
Bồ Tát và Thanh Văn,
Chư Phật đều quở trách.
Người giết hại ăn thịt,
Ăn thịt chẳng hổ thẹn.
Đời đời thường ngu dốt,
Trước nói kiến văn nghi.
Đã dứt tất cả thịt,
Người vọng tưởng chẳng biết.
Thọ sanh loài ăn thịt,
Do lỗi họ tham dục.
Chướng ngại sự giải thoát.
Rượu thịt và ngũ tân,
Thảy đều chướng Thánh đạo,
Chúng sanh đời vị lai,
Ngu si mới ăn thịt.
Hoặc có người chấp trước,
Ăn tịnh nhục vô tội,
Vì Phật đã cho ăn.
Họ lại quên lời Phật,
Ghi trong nhiều kinh điển.
Có lời nói như thế:
Ăn thịt như ăn con,
Cũng như uống thuốc độc.
Khiến người tu chán lìa.
Thường theo hạnh khất thực,
An trụ nơi từ tâm.
Những ác thú cọp sói,
Có thể cùng dạo chơi.
Nếu ăn loài máu thịt,
Chúng sanh đều kinh sợ.
Cho nên người tu hành,
Từ tâm chẳng ăn thịt.
Ăn thịt mất trí huệ,
Trái hẳn chánh giải thoát.
Nghịch tướng mạo bậc Thánh,
Do đó không nên ăn.
Được sanh giòng Phạm Chí,
Và các chỗ tu hành,
Nhà giàu sang trí huệ,
Đều do chẳng ăn thịt,
Là lời Ta thường thuyết.