094.278.3333 - 0888.959.000

187 Bà Triệu - quận Hai Bà Trưng - Hà Nội

KINH LỜI VÀNG - MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH KINH LỜI VÀNG - MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH Tác Giả: Minh Đức Triều Tâm Ảnh
NXB: Phương Đông
Số Trang: 231 Trang
Hình Thức: Bìa Mềm
Khổ: 17x17cm
Năm XB: 2008
Độ Dày: 1,4cm
KLV1 KINH TỤNG 45.000 đ Số lượng: 1000000 Quyển
  • KINH LỜI VÀNG - MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH

  •  3758 Lượt xem
  • Mã sản phẩm: KLV1
  • Giá bán: 45.000 đ

  • Tác Giả: Minh Đức Triều Tâm Ảnh
    NXB: Phương Đông
    Số Trang: 231 Trang
    Hình Thức: Bìa Mềm
    Khổ: 17x17cm
    Năm XB: 2008
    Độ Dày: 1,4cm


Số lượng
Người mất ngủ thấy đêm dài
Đường xa nặng trĩu đôi vai lữ hành
Ngu nhân chẳng thấy pháp lành
Luân hồi nào biết mối manh nẻo về.


 
kinh lời vàng



Minh Đức Triều Tâm Ảnh là bút hiệu của tỳ kheo Giới Đức, là một trong những người sáng lập ra chùa Huyền Không (Huế) từ mái chùa lá ở đèo Hải Vân trước năm 1978. Ông là một nhà sư giỏi thơ văn, am tường hội họa và trang trí mỹ thuật và là một cao thủ cờ tướng từng đánh bại một số kì thủ quốc gia. Đồng thời ông cũng là một trong những người nổi tiếng về nghệ thuật thư pháp tại Việt Nam những năm cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21.

Hòa thượng thế danh Nguyễn Duy Kha sinh ngày 19 tháng 7 năm 1944 tại Dạ Lê thượng, huyện Hương Thuỷ, Thừa Thiên Huế. Cha là cụ ông Nguyễn Duy Hoan và mẹ là cụ bà Nguyễn Thị Sừng. Thượng tọa có pháp danh là Giới Đức [bút hiệu Minh Đức Triều Tâm Ảnh] đã tu tập sự tại chùa Từ Quang [Bắc Tông]- Huế từ năm 1970-1971. Năm 1972 ông vào chùa Tam Bảo - Đà Nẵng hỏi đạo hòa thượng Giới Nghiêm, thuộc [Nam Tông]. Năm 1973 ông vào Tam Bảo thiền viện tại Núi Lớn, Vũng Tàu làm giới tử rồi xuất gia sa-di ở đây - ngài hòa thượng Giới Nghiêm cho pháp danh là Giới Đức [Sīlaguna]. Sau mùa an cư năm 1973 ông theo thầy vào ở chùa Phật Bảo, Phú Thọ Hòa, Gia Định.

Cuối năm 1974, ông về ở chùa Huyền Không tại chân đèo Hải Vân Lăng Cô, Lộc Hải, Phú Lộc, ngôi chùa do ngài Viên Minh sáng lập cùng với chư huynh đệ là sư Tịnh Pháp, sư Trí Thâm, sư Tấn Căn. Năm 1976, ngài Viên Minh vào làm Tổng thư ký hệ phái Nguyên Thủy tại chùa Kỳ Viên, Bàn Cờ, Sài Gòn - nên đề cử ông giữ chức vụ trụ trì chùa Huyền Không. Năm 1977,ngày 17 tháng 2, lúc 9 giờ 58 phút, ông được thọ đại giới tỳ-khưu tại chùa Tam Bảo - Đà Nẵng, thầy bổn sư tế độ là hòa thượng Giới Nghiêm, thầy Yết-ma là đại đức Giới Hỷ. Tháng 11 năm 1978, chùa Huyền Không được di dời từ Hải Vân, Lăng Cô về thôn Nham Biều, xã Hương Hồ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa thiên Huế.


 
kinh lời vàng 1


Thượng tọa trụ trì ở đây được 10 năm, đã thiết kế được một không gian vườn cảnh đậm tính chất thiền, với tranh tre nứa lá giản dị, với thiên nhiên hoa cỏ thơ mộng rất phù hợp với tâm hồn tao nhân, mặc khách. Năm 1988-1999, hưởng ứng phong trào trồng cây xanh, Thượng tọa xin tỉnh và sở Lâm nghiệp giao cho 54 ha 4 đất trống đồi trọc để trồng rừng. Đầu năm 1992, Thượng tọa mới chính thức vào ở hẳn trong núi Hòn Vượn, bàn giao chùa Huyền Không cho đại đức Pháp Tông làm trụ trì. Hình ảnh ngôi chùa bề thế hiện nay ở Huyền Không là công sức và tài năng kiến tạo của đại đức Pháp Tông.

Năm 1989,Thượng tọa vận động hiệp hội Schmitz thông qua Tiến sĩ Thái Kim Lan tại Đức xây cầu Bạch Yến thuộc thôn Nham Biều, xã Hương Hồ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế giúp địa phương quanh vùng thuận lợi trong việc giao thông đi lại. Ðây là một công tác xã hội có ý nghĩa lớn tại Huế vào thời bấy giờ. Từ năm 1989 đến nay, Thượng tọa là Sư trưởng Huyền Không Sơn Thượng. Tại cơ sở mới này, năm 2007, Thượng tọa lại trao đổi trực tiếp với ông Giám đốc điều hành Hiệp hội Schmitz để xây cầu Sơn Thượng - rồi vận động xã, huyện và tỉnh làm thêm con đường bê-tông 1 km đi vào tổ 7 thôn Chầm, khá tiện ích cho nhân dân khai thác những khu rừng trồng từ lâu không có lối đi. Là tu sĩ, lại là người yêu Cái Đẹp, Thượng tọa tiếp tục thiết kế vườn cảnh, xây dựng cốc liêu, sáng tác thơ văn và góp phần đào tạo Tăng tài cho Phật giáo Nguyên thủy Việt Nam.


 
kinh lời vàng 2



Thượng tọa Giới Đức (Minh Đức Triều Tâm Ảnh) là nhà thơ có tên tuổi ở đất thần kinh và đã xuất bản nhiều tập thơ. Ông cũng là nhà văn rất nổi tiếng trong giới Phật giáo; những tác phẩm của ông chẳng những có giá trị trong giới Phật học trong và ngoài nước mà còn đóng góp không nhỏ cho nền văn chương, văn học của Việt Nam. Những tác phẩm tiêu biểu:

Chèo vỡ sông trăng (Tập thơ - Nhà xuất bản Thuận Hóa)
Kinh lời vàng (Phổ thơ kinh Pháp cú - Nhà xuất bản Phương Đông)
Ngàn xưa hương Bối (Hai tập truyện cổ Phật giáo - Nhà xuất bản Tôn Giáo)
Một cuộc đời - một ngôi sao (Cuộc đời ngài Sàriputta - Nhà xuất bản Tôn Giáo)
Hành hương tâm linh (Truyện dài tư tưởng - Nhà xuất bản Phương Đông)
Phật học tinh yếu (Tập I - Nhà xuất bản Phương Đông)
Đá trắng chiêm bao (Tập thơ - Nhà xuất bản Thuận Hóa)
Tình Mẹ - mùa báo hiếu (Tập thơ - Nhà xuất bản Thuận Hóa)
Đóa hồng vàng cửa Phật (Tập thơ - Nhà xuất bản Phương Đông)
Lửa lạnh non thiêng (Tập thơ - Nhà xuất bản Thuận Hóa)
Chữ cháy bờ lau (Tập thơ - Nhà xuất bản Thuận Hóa)
Giun dế, hư vô và hạt lửa xanh (Tập thơ - Nhà xuất bản Văn Học)
Sử Phật giáo Ấn Độ và Trung Quốc (Tập I - Nhà xuất bản Thuận Hóa)
Bức tranh thay đổi thế giới (Tập truyện ngắn - Nhà xuất bản Phương Đông)
Một cuộc đời - Một Vầng Nhật Nguyệt (Bộ Đại sử Đức Phật Sàkya Muni - Tập I,II,III - 1500 trang - Nhà xuất bản Văn Học)
Người trồng hoa và chàng tu sĩ (Tập truyện ngắn - Nhà xuất bản Phương Đông)
Chuyện cửa Thiền (Tập truyện - Nhà xuất bản Cảo Thơm)
Mi Tiên vấn đáp (Hiệu chính - Nhà xuất bản Văn Học)
Thắp lửa tâm linh (Truyện danh tăng - Tập I,II - Nhà xuất bản Thời Đại)
Tiếng hú trên đỉnh cô phong (Tiểu luận, tạp luận văn học - Nhà xuất bản Văn Học)
38 pháp hạnh phúc (Hiệu đính - Nhà xuất bản Tôn Giáo)
Bụi, trăng và lửa (Tập thơ 1100 trang - Nhà xuất bản Văn Học)
Phật học tinh yếu (Tập 2 - Nhà xuất bản Phương Đông)


 
kinh lời vàng 3



TRÍCH:
I. SONG YẾU

1.
Các pháp do ý dẫn đầu
Ý chủ, ý tạo bắt cầu đưa duyên
Nói, làm với ý chẳng hiền
Bánh xe, bò kéo khổ liền theo sau!

2.
Các pháp do ý dẫn đầu
Ý chủ, ý tạo bắt cầu đưa duyên
Nói, làm với ý tốt hiền
Nhƣ hình dọi bóng vui liền theo sau!

3.
"Nó đánh, nó cướp của tôi!
Lại còn nhục mạ lắm lời đắng cay!"
Ai mà ôm ấp niệm nầy
Lửa phiền thiêu đốt tháng ngày chẳng nguôi!

4.
"Nó đánh, nó cướp của tôi!
Lại còn nhục mạ lắm lời đắng cay!"
Người không ôm giữ niệm nầy,
Lửa phiền chợt tắt khổ rày tự tiêu!

5.
Nếu ai lấy oán báo thù
Oan oan tương báo thiên thu hằng sầu
Từ tâm định luật nhiệm mầu
Lấy ân báo oán còn đâu oán thù?

6.
Luận tranh chẳng có ích gì!
Tranh cường, hiếu thắng lắm khi phiền hà
Ai người suy gẫm sâu xa
Nói năng tự chế, bất hòa lặng yên!


 
kinh lời vàng 4



7.
Người hằng say đắm lục trần
Uống ăn vô độ trăm phần dễ duôi!
Ma vương chúng vỗ tay cười
Cây cành mềm yếu tơi bời gió lay!

8.
Ngƣời hằng quán niệm tự thân
Uống ăn tiết độ tinh cần sớm hôm
Ma vương đâu dễ khinh lờn
Gió qua núi đá chẳng sờn, chẳng lay!

9.
Người không tự chế, không chơn
Người mà tâm địa chẳng hơn thế phàm!
Làm sao xứng mặc y vàng?
Làm sao xứng đáng dự hàng Sa-môn?

10.
Người mà nhẫn nại tu hành
Nghiêm trì giới luật cao thanh rỡ ràng
Khen thay! khéo mặc y vàng?
Khen thay! xứng đáng dự hàng Sa -môn

11.
Phi chơn lại tưởng chánh chơn
Chánh chơn lại tưởng phi chơn, đó là:
Duy trì ác kiến, ác tà
Ngu nhân nào thấy tinh hoa pháp mầu!

12.
Chánh chơn thấy rõ chánh chơn
Phi chơn thấy rõ phi chơn, mới là:
Lìa xa ác kiến, ác tà
Trí nhân dễ ngộ tinh hoa pháp mầu!

13.14.
Nhà ai vụng lợp, mưa tuôn!
Tâm người kém hạnh dễ luồn ái tham
Mái tranh che đậy kỹ càng
Tâm người khéo giữ, dục phàm khó xen!

15.
Ðây hối quá, kia ăn năn
Tâm người ác hạnh hai đằng chẳng vui
Bất an, ưu não rối bời
Mắt nhìn khổ báo, Phật, trời thở than!

16.
Ðây hoan hỷ, kia hỷ hoan
Tâm người thiện hạnh mọi đàng mọi vui
An vui, hoa nở, nụ cƣời
Mắt nhìn phước sự thảnh thơi, nhẹ nhàng!

17.
Ðây đau khổ, kia khổ đau
Tâm người ác hạnh
muộn sầu thảm thương
Thở than nghiệp dữ đã vương
Chết vào khổ cảnh đoạn trường, than hơn!

18.
Ðây hạnh phúc, kia an vui
Tâm người thiện hạnh rạng ngời hân hoan
Ðã mừng gieo được phước vàng
Sanh vào tiên cảnh lại càng mừng hơn!

19.
Suốt thông kinh luật mặc dầu
Nếu không hành đạo đếm trâu, đếm bò!
Dễ đuôi, tự mãn, nằm co!
Qua miền siêu thoát gọi đò, ai đưa?

20.
Ít thông kinh luật mặc dầu
Nếu chuyên hành đạo tìm câu sửa mình
Sống đời chánh hạnh, quang minh
Qua miền siêu thoát, vô sinh, hưởng nhàn!


 


MỤC LỤC:
  1. SONG YẾU
  2. KHÔNG PHÓNG DẬT
  3. TÂM
  4. HOA
  5. KẺ NGU
  6. HIỀN TRÍ
  7. A-LA-HÁN
  8. NGÀN
  9. ÁC
  10. HÌNH PHẠT
  11. PHẨM GIÀ
  12. TỰ NGÃ
  13. THẾ GIAN
  14. PHẬT ĐÀ
  15. AN LẠC
  16. HỶ ÁI
  17. PHẪN NỘ
  18. CẤU UẾ
  19. PHÁP TRỤ
  20. ĐẠO
  21. TẠP LỤC
  22. ĐỊA NGỤC
  23. VOI
  24. THAM ÁI
  25. TỶ KHEO
  26. BÀ-LA-MÔN
 
thông tin cuối bài viết 2
 
     

 

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây