094.278.3333 - 0888.959.000

187 Bà Triệu - quận Hai Bà Trưng - Hà Nội

DẤU CHÂN TRÊN CÁT - TS NGUYÊN PHONG DẤU CHÂN TRÊN CÁT - TS NGUYÊN PHONG Nguyên Tác: The Egyptian
Tác Giả: Mika Waltari
Phóng Tác: Nguyên Phong
NXB: Tổng Hợp TPHCM
Số Trang: 429 Trang
Hình Thức: Bìa Mềm Có Tay Gập
Khổ: 14,5x20,5cm
Năm XB: 2020 - Độ Dày: 3cm
DCTC VĂN HỌC - TRIẾT HỌC 148.000 đ Số lượng: 1000000 Quyển
  • DẤU CHÂN TRÊN CÁT - TS NGUYÊN PHONG

  •  1933 Lượt xem
  • Mã sản phẩm: DCTC
  • Giá bán: 148.000 đ

  • Nguyên Tác: The Egyptian
    Tác Giả: Mika Waltari
    Phóng Tác: Nguyên Phong
    NXB: Tổng Hợp TPHCM
    Số Trang: 429 Trang
    Hình Thức: Bìa Mềm Có Tay Gập
    Khổ: 14,5x20,5cm
    Năm XB: 2020 - Độ Dày: 3cm


Số lượng
Dấu chân trên cát” là tiểu thuyết dã sử hấp dẫn, đặt trên nền bối cảnh là đất nước Ai Cập cổ đại, huyền bí được GS. John Vũ (Nguyên Phong) phóng tác. Đây là cuốn tiểu thuyết không thể bỏ qua với những người đam mê tìm hiểu văn hóa, tâm linh và ý nghĩa cuộc đời. “Dấu chân trên cát” được viết dưới ngôi thứ nhất, là góc nhìn và lời tự thuật của nhân vật chính Sinuhe – một y sĩ có biệt danh là Y sĩ cô độc sống ở Ai Cập vào thế kỷ thứ XIV trước Công Nguyên.

 
dấu chân trên cát


Tương truyền, Sinuhe là một người Ai Cập nhưng đã đến Hy Lạp mở trường dạy học. Sinuhe có rất đông học trò. Sau khi ông qua đời, học trò của ông đã góp phần xây dựng Hy Lạp trở thành một quốc gia văn minh, hùng cường mà các thế hệ sau này gọi là “thời buổi hoàng kim của các triết gia”. Học trò của ông là Plato, Aristotle, Socrates, Epictetus… Vậy Sinuhe là ai và làm thế nào mà một giáo sĩ ngoại quốc có thể đến Hy Lạp có thể mở trường dạy học và để lại những kho tàng tri thức quý báu đến vậy?

Theo lời kể, Sihune là con của một cặp vợ chồng y sĩ Sen Moot. Từ nhỏ, ông đã được tiếp cận y thuật nhờ quan sát người cha – người y sỹ tài năng, đức độ. Cha của Sinuhe rất giỏi trị bệnh, mổ xẻ, trong đó có cả kỹ thuật mổ sọ. Sinuhe được cha mẹ dạy rằng: “Những tài sản tình cảm, những tài sản tinh thần, những tài sản tâm linh, mới là những tài sản vô giá, mới là những tài sản bền lâu, thanh cao”.

16 tuổi, Sinuhe được gửi vào trường y khoa Abydos – một trong những trường y khoa nổi tiếng nhất Ai Cập thời bấy giờ. Tại đây, Sinuhe được học môn Khoa học của Sự sống – môn khoa học về việc chữa trị bệnh tật và sống thuận hòa với tự nhiên. Sinuhe được đạo trưởng Akhanuxem tiết lộ, có những căn bệnh quái ác vượt ngoài tầm nghiên cứu của Khoa học của sự sống và nguyên nhân gây bệnh thuộc về cõi giới bên kia cửa tử, xuất phát một kiếp sống khác. Đó cũng là đối tượng nghiên cứu của Khoa học của sự chết.

Liên tục trong hành trình của mình, Sinuhe trải qua nhiều biến cố, thăng trầm trong cuộc đời. Cuối cùng ông chọn con đường bị lưu đày khỏi Ai Cập để hướng tới theo đuổi những giá trị lớn hơn. Nhưng dù đã “phát dương quang đại” những tư tưởng minh triết như thế nào, cuộc đời huyền thoại của Sinuhe cuối cùng giống như “dấu chân trên cát”, huy hoàng rực rỡ rồi quay trở về ẩn chứa, tiềm tàng trong lớp cát bụi của thời gian.

Dấu chân trên cát” cũng là một câu chuyện sâu sắc về tình yêu và bản ngã con người. Tình yêu đã tạo nên khúc quanh lịch sử của các triều đại, tình yêu đưa con người lên đỉnh vinh quang, đồng thời cũng vùi dập biết bao kẻ "thân bại danh liệt". Và câu chuyện của y sĩ Sinuhe cũng có thể xem là một câu chuyện ngang trái về tình yêu. “Đừng bao giờ coi thường một người đàn bà, bất cứ là người đàn bà nào trên đời.” – Sinuhe đúc kết.

Sinuhe là một y sĩ thanh cao, một y sĩ chân chính của người nghèo. Sinuhe từng tự hào vì của cải, danh vọng không thể mua chuộc được mình, nhưng nào đâu có ngờ, anh lại đánh mất tất cả - sự tự tôn, tính lương thiện và cả gia sản bởi mối tình đầu của mình - cô kỹ nữ xinh đẹp Nefer. Sinuhe cũng mất tới 10 năm lưu lạc tại Palestine, chìm ngập trong lòng oán hận, để rồi mãi về sau anh mới nhận ra không có tình yêu nào trường tồn, vĩnh viễn, nhất là thứ tình yêu đau khổ vì sự phụ bạc của người mình yêu.

“Dấu chân trên cát” cho chúng ta một bài học rằng trên đời này không có cái gì là tuyệt đối. Chúng ta có thể không sa ngã nhiều thứ, nhưng vẫn có thể sa ngã vì một điều gì đó, đặc biệt là tình yêu - tất cả đều rất gần với con người trong đời sống thật. Bản ngã con người là vậy, thường không vững bền khắc sẽ vị lung lay vì những thứ hào nhoáng bên ngoài, không có giá trị thực tế...


 
dấu chân trên cát 1


“Dấu chân trên cát” là tác phẩm hàm chứa nhiều triết lý nhân sinh và quan niệm sâu sắc về thế giới tâm linh. Giống như những tác phẩm khác của GS. John Vũ như Hành trình về phương Đông, Hoa trôi trên sóng nước, Huyền thuật và các đạo sĩ Tây tạng, Bên rặng tuyết sơn…  câu chuyện của Sinuhe cũng là ẩn dụ về sự trưởng thành trong hành trình tâm linh – khi con người đi theo sứ mệnh, trải qua nhiều thử thách nhận ra sự kết nối giữa mình và vũ trụ.

Đặt toàn bộ câu truyện dưới bối cảnh Ai Cập thời cổ đại, “Dấu chân trên cát” cũng cho người đọc phần nào tiếp cận được nền văn minh Ai Cập - một trong những nền văn minh vĩ đại nhất của loài người... Cuốn sách đầu tiên được xuất bản năm 1945, cho đến nay đã hơn 74 năm trên thế giới với rất nhiều thứ tiếng đã được dịch với rất nhiều bản in.

Dấu chân trên cát” là một cuốn sách hư cấu, không dựa trên sự thật cũng như không kể về cuộc đời của tác giả, tuy nhiên khi một lần đến Hy Lạp và được người dân ở đó kể về một giai thoại về nhân vật Sinuhe, Sinuhe được những người dân trong đó đồn đại và kể rằng người này là thầy của những triết gia vĩ đại nhất của Hy Lạp. Những triết gia đó là Socrates, Plato, Aristole, Pythagore, Thales, Solo, v.v… họ đều là những triết gia vĩ đại tạo ra nền móng triết học hiện đại ngày nay. Chính vì vậy nên tác giả rất tò mò về cuộc đời của người tên là Sinuhe này, tác giả đã tìm tới những người bô lão, những người già để mà nghe họ kể lại những câu chuyện trong dân gian cũng như sử dụng những di khảo cổ, thông tin từ cổ vật sau đó lần lại trong quá khứ và viết nên cuốn sách này.

Tuy là một cuốn sách về lịch sử nhưng đây lại là một cuốn sách rất hấp dẫn, lôi cuốn, có kịch tính và còn truyền cảm hứng nữa, tại vì nó là một cuộc đời xuyên suốt từ lúc nhỏ cho đến lúc trưởng thành, những thành công thất bại trong cuộc sống, cuối cùng đi tới Hy Lạp xây dựng nên một ngôi trường tạo ra những triết gia vĩ đại nhất trên thế giới. Trong cuốn sách này có vài khái niệm hay mà chúng ta thường không nghĩ tới.

Cái số một đó là khái niệm khoa học của sự chết, các bạn đều biết đến khoa học của sự sống hiểu đơn giản là học nghiên cứu về cơ thể và cứu người để làm sao cho con người sống tốt hơn, sống khỏe mạnh hơn, tuy nhiên khoa học về sự chết lại là khái niệm vô cùng lạ lẫm cuốn hút. Ai cũng chết đi, vậy khi chết đi rõ ràng là chúng ta phải có sự chuẩn bị, chuyển qua một giai đoạn mới đó là “bên kia” nếu chúng ta không chuẩn bị gì hết thì chúng ta cũng sẽ bị te tua ở bên kia. Chính vì vậy khoa học của sự chết là cách chúng ta chuẩn bị khi mà chúng ta chết đi.

Cái số hai thì ở phần đề tựa cuốn sách có viết rằng chuyện về người Ai Cập khai sáng văn minh Hy Lạp, mọi người sẽ nghĩ là nó nói về Hy Lạp vĩ đại ra sao, lịch sử hoàng tráng thế nào nhưng cuối cùng toàn bộ trong cuốn sách này chỉ nói về cuộc đời của Sinuhe ở Ai Cập, 99% là ở Ai Cập. Nó hay ở chỗ mà chúng ta sẽ thấy được cuộc đời của một con người từ nhỏ lớn lên học từ cha mẹ, thất bại trong tình yêu, học từ bạn bè vươn lên những vị trí cao trên xã hội rồi học từ Pharaông, một con người rất kì lạ trong lịch sử Hy Lạp, học từ thất bại và quá là nhiều điều hay ho trong cuộc đời. Để từ đó chúng ta có thể học hỏi từ người này. Xuyên suốt cuộc đời một con người thì nó như một cái lăng kính để đôi khi chúng ta soi lại, nhiều lúc mình đi quá nhanh hoặc là mình đi quá chậm thì mình xem lại để biết mình nên như thế nào với cuộc sống của mình.

Cái thứ ba làm cho người đọc cảm thấy rất là thích cuốn sách này tại vì những quan điểm, suy nghĩ, quyết định của Pharaông rất đặc biệt, khác người. Trong suốt chiều dài lịch sử của Ai Cập thì những vị Pharaông khi mà họ lên ngôi thì họ sẽ chiến tranh, đi xâm lược nước này nước kia, lấy tài sản để mà họ mua nô lệ để làm giàu cho đất nước của họ; xây lăng tẩm to nhất có thể để biểu trưng cho sức mạnh, sự ảnh hưởng và quyền thế của mình; họ thờ cúng rất nhiều các loại thần: thần cây, thần rắn, thần lá, thần cành. Tuy nhiên, vị Pharaông này thì có ba cái không: không chiến tranh, không lăng tẩm, không mê tín dị đoan để mà dành thời gian cho giáo dục, tình thương yêu, cơ mà ông này có thờ duy nhất vị thần ánh sáng. Dù bạn không thích hay thích Nhà Giả Kim thì cuốn sách này cũng là một sự thay thế hoàn hảo. Câu chuyện tâm linh cuốn hút, yếu tố văn hóa và lịch sử được lồng ghép rất tinh tế. Nhiều bài học và góc nhìn hay được kể xuyên suốt




Giới Thiệu
Ngày nay Ai Cập chỉ được biết đến như một quốc gia chậm tiến với những Kim Tự Tháp đồ sộ và những cổ mộ chứa xác ướp. Rất ít ai biết về quá khứ đầy huy hoàng của nền văn minh đã bị vùi lấp trong lòng cát sa mạc này. Hiển nhiên lịch sử đã ghi nhận về triều đại của các vua Pharaoh, những người đã tốn rất nhiều xương máu dân chúng để xây cất các Kim Tự Tháp, nhưng xây cất vào việc gì thì vẫn còn là một câu hỏi mà ngày nay người ta chưa tìm được câu trả lời. Lịch sử triều đại vua chúa Ai Cập cũng chứa đựng nhiều bí mật lạ lùng không thể giải thích. Hiện nay các nhà khảo cổ thông thái nhất vẫn không tìm được một chút manh mối hay di tích gì về các đấng quân vương, những người đã xây dựng lên nền văn minh bậc nhất bên bờ sông Nile này. Họ chỉ khai quật được mồ mả, lăng tẩm của các bạo chúa, những người đã gây chiến tranh khắp nơi, làm đổ máu dân lành vô tội.

Nhà khảo cổ Kevin Livingston đã viết: "Hình như các vị minh quân không hề xây cất lăng tẩm, không hề dựng bia đá khắc ghi công trạng của mình. Phần lớn các lăng tẩm hay mồ mả đã được đào lên chỉ toàn của các vị vua bất tài, những bạo chúa khát máu, những người mà tên tuổi không còn ai muốn nhắc đến nữa". Ngày nay người ta biết đến triều đại các vua chúa Ai Cập thời cổ qua sách vở của người Hy Lạp. Sở dĩ các sử gia Hy Lạp biết được các chi tiết này vì họ đã học hỏi từ một người Ai Cập bị đày biệt xứ tên là Sinuhe. Đây là một nhân vật lạ lùng, đã có công mang văn minh Ai Cập truyền vào Hy Lạp khi quốc gia này còn ở một tình trạng kém mở mang so với Ai Cập lúc đó.

Các sử gia ngày nay đã đưa ra nhiều giả thuyết về nhân vật Sinuhe này. Có người cho rằng ông chỉ là một lái buôn đến Hy Lạp lập nghiệp nhưng làm sao một lái buôn lại mở trường dạy học và để lại nhiều tài liệu quí giá như thế được? Từ ngàn xưa, chỉ riêng giai cấp vua chúa và giáo sĩ mới được hưởng quy chế giáo dục toàn vẹn như vậy mà thôi. Do đó, một số người cho rằng ông thuộc giai cấp giáo sĩ nhưng việc một giáo sĩ Ai Cập đến mở trường dạy học tại Hy Lạp cũng là điều khó chấp nhận. Mặc dù khi đó văn minh Hy Lạp chưa tiến bộ như Ai Cập nhưng tôn giáo xứ này đã phát triển rất mạnh, hiển nhiên các giáo sĩ Hy Lạp không thể chấp nhận cho một giáo sĩ ngoại quốc đến mở trường dạy học tại thánh địa Olympia của họ được. Nếu thế, phải chăng Sinuhe thuộc giai cấp hoàng tộc? Điều này xét ra cũng không có lý vì một người thuộc giai cấp hoàng tộc không thể bị đày biệt xứ. Luật pháp Ai Cập chủ trương xử tử những kẻ trong hoàng tộc nếu họ vi phạm một tội trọng nào đó chứ không có lệ đày biệt xứ, vì các vua Pharaoh rất sợ những người trong bọn họ chiêu binh mãi mã làm phản. Việc một người Ai Cập, thân thế mơ hồ, bị đày biệt xứ, đến mở trường dạy học tại Athens, trung tâm văn hóa của Hy Lạp, vẫn là một bí mật đến nay các nhà khảo cổ chưa tìm được câu trả lời.


 
dấu chân trên cát 2



TRÍCH ĐOẠN:

Chương 1
Tôi tên là Sinuhe, câu chuyện tôi kể lại sau đây là chuyện của tôi, một người Ai Cập, mặc dù hiện nay tôi không còn được sống tại quê hương của tôi nữa. Tên tuổi tôi đã hoàn toàn bị xóa bỏ trong các đền đài, lăng tẩm, văn kiện, bia đá, và có lẽ hiện nay không còn ai nhắc nhở gì đến tôi nữa. Tôi viết lại chuyện này không phải để phục hồi tên tuổi cho tôi nhưng vì tôi thấy cần phải ghi lại các biến cố đã xảy ra tại quê hương tôi một cách trung thực, để thế hệ sau có thể biết rõ về những biến cố trong buổi giao thời lịch sử này. Tôi hy vọng nhờ thế họ có thể học hỏi, tránh không đi vào các vết xe cũ, những lỗi lầm xưa.

Người Ai Cập có thành ngữ: "Kẻ nào đã từng uống nước sông Nile thì không thể uống nước ở đâu được nữa." Quả thế, tuy sống tại Hy Lạp nhưng không bao giờ tôi có thể quên được Ai Cập, quê hương thân yêu của tôi. Mặc dù hiện nay được giải khát bằng những loại rượu nho thơm ngon nhất của Hy Lạp nhưng không bao giờ tôi có thể quên được hương vị trong mát, ngọt ngào của những bình nước được múc lên từ sông Nile, giòng sông mà người Ai Cập thường gọi là "mẹ Nile", một danh từ tràn đầy thương yêu, không bút mực nào có thể tả xiết.

Tôi xin bắt đầu câu chuyện của tôi…

Tôi là một đứa bé Ai Cập sống tại thành Thebes. Hôm đó đang chạy nhảy nô đùa cùng những đứa trẻ đồng tuổi ngoài phố thì mẹ tôi gọi:

- Này Sinuhe, cha muốn con trở về nhà ngay.

Cha tôi là Sen Moot, một y sĩ nổi tiếng đã được huấn luyện tại Abydos, trung tâm giáo dục nổi tiếng nhất tại Ai Cập lúc đó. Mặc dù đỗ thủ khoa, được coi là một trong những y sĩ giỏi nhất nước, nhưng không như các bạn đồng nghiệp, chỉ tiếp bệnh nhân thuộc thành phần giàu có, cha tôi lại chọn một khu xóm bình dân để mở phòng mạch. Ông không đòi hỏi một giá biểu nhất định như các y sĩ đương thời, mà chỉ đặt một hòm gỗ trước cửa phòng khám bệnh để bệnh nhân có thể tùy ý, muốn bỏ vào đó bao nhiêu tiền cũng được.

Có hôm sau khi đóng cửa phòng mạch, mẹ tôi mở hòm ra và chỉ thấy vài đồng xu lẻ, vừa đủ mua một con cá ngoài chợ. Thấy bà có vẻ thất vọng, cha tôi đã khuyên:

"Chúng ta còn sung sướng chán, ít ra cũng có một con cá để ăn bữa chiều."

Mẹ tôi nhẹ nhàng giải thích: "Em không cần ăn nhiều nhưng thằng Sinuhe cũng cần phải có thức ăn bổ dưỡng, nó đang tuổi lớn."

Cha tôi bật cười rồi vỗ mạnh lên vai tôi một cách tự hào: "Bà đừng lo, nó chỉ cần uống vài thang thuốc bổ của ta bào chế là đủ. Xem chừng bà không mấy tin công hiệu của các thang thuốc bổ của ta thì phải?"

Mẹ tôi lắc đầu: "Đâu phải em không tin nhưng trẻ con cũng cần phải ăn chút thịt cá chứ, ăn uống mấy loại rễ cây đó mãi đâu có tốt."

Cha tôi bèn quay qua tôi âu yếm: "Này con trai, người ta ăn để sống hay sống để ăn?"

Dĩ nhiên đã quá quen thuộc với những lời khuyên bảo này nên tôi trả lời ngay: "Con chỉ ăn đủ để sống mà thôi."

Cha tôi bật cười sung sướng, nhấc bổng tôi lên quay mấy vòng và reo lớn: "Thật đúng ý ta. Con ngoan lắm!"

Tuy nhiên không phải ngày nào tình trạng tài chánh cũng bi đát như thế. Mỗi khi có những đoàn lái buôn từ phương xa ghé qua thành phố thì chiếc hòm gỗ của cha tôi thường chứa đầy những đồng tiền vàng, tiền bạc. Thấy mẹ tôi lúi húi đếm tiền, cha tôi ân cần nhắc nhở: "Này em, chúng ta chỉ nên giữ một món tiền nhỏ, vừa đủ ăn tiêu trong vòng bảy ngày thôi, còn dư ra bao nhiêu em đem phân phát cho những người nghèo khó hơn chúng ta." Mẹ tôi mỉm cười đồng ý rồi cúi xuống đống bạc trước mặt, chia ra làm hai phần không đều nhau, phần nhỏ bà cất đi để dành chi dùng, phần kia sẽ được đem ra phân phát cho người nghèo trong xóm.

Mẹ tôi xuất thân từ một gia đình thế gia vọng tộc nhưng ngay từ nhỏ bà đã không thích nếp sống xa hoa phung phí này. Bà thường dành nhiều thì giờ chăm lo săn sóc những kẻ nô lệ hay người nghèo khó trong xã hội. Tôi nghe kể có lần ông ngoại tôi mua cho bà một chiếc vòng ngọc rất quí nhưng bà đã đem bán chiếc vòng đó đi, lấy tiền mua thuốc giúp nhưng kẻ nô lệ đang mắc bệnh thời khí. Sự kiện này khiến ông ngoại tôi nổi giận lôi đình và có ý trừng phạt bà thật nặng. May thay, tấm lòng nhân hậu của bà đã cảm đến cha tôi, người y sĩ mà bà tìm đến mua thuốc. Cha tôi bèn cầu hôn. Lúc đầu mẹ tôi từ chối vì bà vẫn có ý định trở nên một nữ tu trong đền thần Isis. Tuy nhiên vì lý do gì đó mà cha tôi đã thuyết phục được mẹ tôi bỏ ý định này. Sau hôn lễ, cha mẹ tôi rời thủ đô Memphis dọn đến Thebes, mở phòng khám bệnh tại khu phố bình dân này. Cả hai cha mẹ tôi đều phát nguyện sống thanh bần để phụng sự nhân loại.

Hôm đó khi vừa về đến nhà thì tôi thấy cha tôi đang cạo tóc cho một bệnh nhân. Có lẽ đã được uống một thang thuốc mê nên hai mắt y nhắm nghiền như đang say ngủ. Cha tôi thong thả tuyên bố:

- Này Sinuhe, năm nay con đã lên bảy tuổi rồi, không còn là một đứa bé nữa. Kể từ nay, con sẽ phụ việc cho ta và ta muốn con quan sát những phương cách chữa trị hiếm có. Ngày hôm nay, ta sẽ mổ sọ cho bệnh nhân này…

Sống trong căn nhà nhỏ, vỏn vẹn có hai phòng, tôi không lạ gì công việc chữa trị của cha tôi. Không những tôi rất quen thuộc với những dụng cụ y khoa mà còn biết cả tên những chậu dược thảo hay các vị thuốc mà ông đích thân bào chế nữa. Tôi đã chứng kiến cha tôi chẩn bệnh, chữa bệnh, bào chế thuốc, băng bó cho các bệnh nhân trật tay, gẫy chân. Đã có lần tôi xem cha tôi đỡ đẻ cho một sản phụ và giải phẫu cho một người có bướu trong ruột, nhưng mổ sọ người là việc hiếm có chưa từng thấy.

Nhìn vẻ mặt đầy thích thú của tôi, cha tôi gật đầu và nói một cách hãnh diện:

- Này con trai, mổ sọ người là một việc vô cùng khó khăn mà rất ít y sĩ có thể làm được. Tuy nhiên đây là môn sở trường của ta, vì thế ta muốn con phụ giúp ta trong cơ hội hiếm có này.


 
dấu chân trên cát 3


Ông lấy ra một chiếc hộp lớn chứa đầy những dụng cụ giải phẫu kỳ lạ và bắt đầu giải thích công dụng của từng cái một. Tôi im lặng theo dõi và đặt câu hỏi mỗi khi không hiểu rõ. Cha tôi giải thích từng chi tiết cho đến khi cuộc giải phẫu bắt đầu. Ông đặt những dụng cụ này vào một chiếc đĩa bằng đồng, rắc lên đó một chút hương liệu và châm lửa đốt. Tôi nín thở theo dõi những ánh lửa màu xanh liếm quanh những con dao mổ hình thù kỳ lạ. Không khí trong căn phòng đột nhiên trở nên im lặng khác thường. Cha tôi thong thả làm việc. Vừa làm ông vừa giải thích và sau cùng ông dừng tay đưa mắt nhìn tôi, chậm rãi nói:

- Này Sinuhe, con có sợ không?

Tôi lắc đầu. Cha tôi mỉm cười đặt lưỡi dao lên sọ bệnh nhân:

- Tốt lắm! Trong nghề này, việc giáp mặt với cái chết là lẽ thường, không có gì phải sợ hãi. Khi ta khởi sự làm việc này thì thần chết cũng đã lảng vảng quanh đây rồi. Ta và y sẽ bắt đầu một cuộc so tài và kết quả ra sao khó có thể biết trước được.

Ông khởi sự bằng những đường mổ quanh đầu bệnh nhân rồi lấy ra một cái búa nhỏ khẽ gõ quanh đầu bệnh nhân mấy cái. Trước cặp mắt kinh ngạc của tôi, ông thong thả nhấc hẳn mảng sọ ra khỏi đầu bệnh nhân một cách nhẹ nhàng như người ta nhắc nắp vung ra khỏi cái nồi. Ông chỉ vào một vết bầm màu xám trong bộ óc:

- Con hãy xem đây… Bệnh nhân này bị một cái bướu đè lên màng óc nên y không thể nói năng được nữa. Khi cắt cái bướu này đi thì y sẽ phục hồi và có thể nói được như thường.

- Tại sao như thế?

- Có lẽ cái bướu này ngăn trở sự lưu thông của huyết mạch liên hệ đến các giác quan nói trên.

- Nhưng cái bướu đó ở đâu ra? Làm sao nó lại có thể chui vào sọ của bệnh nhân được?

- Nếu xét về nguyên nhân bệnh trạng thì vô chừng, không thể giải thích ngay được. Sau này ta sẽ giải thích cho con nhưng hiện nay không phải là lúc.

Ông hít một hơi dài như để định thần rồi bắt đầu làm việc. Tôi im lặng theo dõi từng cử chỉ của ông với vẻ thán phục. Thỉnh thoảng ông ra lệnh cho tôi mang đến cho ông một ít thuốc cầm máu hay vài dụng cụ mà ông không thể với tay lấy được. Không khí trong phòng dần dần trở nên căng thẳng, tôi thấy trán của cha tôi lấm tấm mồ hôi nhưng mắt ông vẫn không rời vết thương, hai tay ông vẫn thoăn thoắt làm việc. Sau cùng ông ngưng lại ngắm nghía công trình của mình rồi bật lên một tràng cười sảng khoái:

- A ha! Lần này thì ta lại lừa được gã thần chết một lần nữa rồi.

Dĩ nhiên không phải lần nào cha tôi cũng may mắn như vậy. Kể từ khi trở nên người phụ tá cho ông, tôi đã chứng kiến nhiều cuộc tranh đấu đầy gay go giữa ông với thần chết. Có khi cha tôi thắng nhưng cũng có lúc ông đành bó tay sau khi đã tận lực cứu chữa. Nhìn những thể xác nằm bất động, tôi thắc mắc:

- Tại sao người ta lại chết?

Cha tôi thản nhiên trả lời:

- Con hỡi, đã sinh ra ai chẳng phải chết. Điều khác biệt chỉ là vấn đề thời gian mà thôi. Người chết sớm, kẻ chết muộn nhưng trước sau ai cũng chết…

- Nếu vậy thì cứu chữa làm gì nếu trước sau ai cũng chết?

Cha tôi nheo mắt nhìn tôi với vẻ thích thú rồi nói:

- Bởi thế mới có cuộc so tài giữa y sĩ và thần chết để kéo dài thêm thời gian.

- Nhưng rốt cuộc thần chết vẫn thắng vì trước sau ai cũng phải chết.

- Đúng thế.

- Nếu vậy tại sao cha lại tốn công nhọc sức làm gì?

- Điều này ta không thể nói được mà con phải tự tìm ra.

- Tại sao đã biết, cha lại không thể nói ra được?

Cha tôi dịu dàng nhìn tôi một lúc rồi thong thả nói:

- Con hỡi, cuộc đời là một bài toán hết sức phức tạp mà trong đó mỗi người phải tự tìm kiếm ra câu giải đáp cho mình. Kẻ nào không biết sử dụng đời mình để tìm kiếm ra câu giải đáp đó thì thật không đáng sống chút nào. Đời sống vốn là một sự bí mật, đòi hỏi một sự tìm kiếm không ngừng, và đó chính là ý nghĩa chân thật nhất của đời sống.

- Nhưng sau khi chết, người ta đi về đâu?

Cha tôi im lặng như suy nghĩ rồi nói một cách chậm rãi:

- Này con trai, có một khoa học của sự sống và cũng có một khoa học của sự chết. Điều ta được truyền dạy là khoa học của sự sống, do đó trọn đời ta chỉ nghiên cứu các kỹ thuật, phương pháp, cùng các loại dược thảo có công hiệu chữa trị và kéo dài sự sống mà thôi. Đối với những người nghiên cứu khoa học của sự chết thì đối tượng của họ là một thế giới khác hẳn với thế giới của ta. Họ nghiên cứu các kỹ thuật, phương pháp làm cho những sự vật vô hình trở nên hữu hình, khám phá các định luật huyền bí trong vũ trụ, đi vào các cõi giới xa xăm để bào chế các chất liệu bí mật rồi sử dụng vào những điều mà ta không biết rõ vì nó ở ngoài khả năng hiểu biết của ta.

Từ khi trở nên người phụ tá cho cha tôi thì tôi ít có cơ hội ra phố chạy nhảy, chơi đùa với những đứa bé cùng xóm như trước nữa. Tuổi thơ của tôi trôi qua rất nhanh. Những trò chạy nhảy, bơi bội, đánh chuyền… đã được thay thế bằng những phương pháp chẩn bệnh, định bệnh và bào chế các vị thuốc lấy ra từ những lá cây, rễ cây mà cha tôi gửi mua từ những nơi rất xa. Thỉnh thoảng cũng có khi cha tôi phải đích thân đi hái thuốc. Những lần như thế, có khi ông đi cả tháng mới trở về nhà. Khi ông đi vắng, tôi lại có dịp nô đùa với những đứa bé cùng tuổi trong xóm nhưng các trò chơi này không còn quyến rũ tôi như trước nữa. Giáp mặt thường xuyên với cái sống và cái chết, tôi trở thành một đứa bé hay tư lự, suy nghĩ với những điều mà một đứa bé cùng tuổi ít khi nào nghĩ đến.

Một hôm cha tôi đi vắng, mấy đứa bạn cùng xóm rủ tôi đi câu cá ở một chiếc hồ phía bắc thành phố. Trong lúc chúng tôi đang câu thì có một đám trẻ khác ở đâu cũng mang cần câu đến. Thấy chúng tôi, một đứa bé to lớn lực lưỡng, trông có vẻ như tên cầm đầu nhóm kia, đã xông đến quát nạt:

- Mấy thằng kia, ai cho phép chúng mày câu cá ở đây?

Thấy dáng điệu hung hăng của đám trẻ kia, chúng tôi vội thu hồi cần câu lại, toan bỏ đi nhưng không kịp nữa, đám trẻ kia đã xông đến cướp lấy rổ cá mà chúng tôi vừa câu được. Thằng bé to lớn quát:

- Hồ này là của chúng ta, cá trong hồ cũng thuộc quyền của chúng ta. Ai cho phép chúng mày được câu?

Mấy đứa tôi sợ hãi nên tình nguyện đưa hết mấy rổ cá cho chúng nhưng thằng đầu đảng vẫn ra lệnh:

- Tịch thu luôn cả cần câu của bọn chúng.

Tuy tiếc rẻ nhưng trước vẻ hung hăng của đám trẻ kia, chúng tôi đành líu ríu đưa cần câu cho chúng. Bọn chúng được thể, xông đến lục soát túi quần túi áo của chúng tôi, xem chúng tôi còn cất giấu những gì. Chúng tịch thu thêm được vài chiếc bánh, vài lưỡi câu và mấy món đồ chơi vặt vãnh. Nhìn vẻ mặt ngơ ngác đầy sợ hãi của chúng tôi, thằng cầm đầu thích thú ra lệnh:

- Mấy đứa mày cởi quần áo ra, ta tịch thu luôn cả quần áo của bọn mày để trừng phạt tội đã đến câu tại hồ của tao.

Tuy sợ hãi nhưng tôi cũng cố năn nỉ:

- Các anh đã lấy cần câu và cá của chúng tôi rồi thì hãy để cho chúng tôi đi.

Nghe thấy thế, thằng cầm đầu bèn ra oai bằng cách xông tới đấm vào mặt tôi khiến tôi loạng choạng, máu mũi tuôn xối xả. Hắn cười lớn:

- Đó là bài học cho những đứa dám cãi lời tao.

Tôi vừa đưa vạt áo lên chùi mặt thì thằng này đã tiện chân đá tôi thêm một cái nữa khiến tôi ngã lăn ra đất. Trong lúc cố gắng đứng dậy thì tôi thấy một đứa bé cởi trần, chỉ khoác một cái khố nhỏ, tay xách cần câu ở đâu đi đến. Đứa bé vừa thả cần câu xuống hồ vừa hỏi:

- Tại sao chúng mày lại đánh nhau vậy?

Một đứa trong bọn kia lên tiếng:

- Này thằng kia! Ai cho phép mày đến câu cá ở đây như thế? Mày muốn chung số phận với những thằng này hay sao?

Thằng bé mới đến ngạc nhiên:

- Tại sao lại thế được? Tao vẫn thường câu cá ở đây và có ai cấm đâu?

Đám trẻ bật cười khoái chí, đứng bao quanh thằng bé cởi trần:

- Hồ này là của bọn tao, tất cả tôm cá trong hồ cũng là của bọn tao và đứa nào đến đây câu cá cũng đều phải nộp hết tôm cá cho bọn tao.

Thằng bé mới đến cười nhạt:

- Thì ra thế! Tao không biết cá trong hồ này là của chúng mày.

- Thì mấy đứa này không biết, dám đến câu nên mới bị trừng phạt đấy!

Thằng bé nghe xong, gật gù như vừa tìm ra điều gì thích thú lắm:

- May quá! Tao đang muốn biết xem ai làm chủ cái hồ này. Hôm qua tao câu được mấy con cá ở hồ này mang về ăn thì bị đau bụng nên đang muốn tìm xem ai là chủ mấy con cá đó để bắt đền đây.

Trước cặp mắt kinh ngạc của đám trẻ kia, thằng bé cởi trần lạnh lùng:

- Chúng mày phải để mọi thứ lại đây cho tao, nếu không chớ có trách.

Tình thế trở nên căng thẳng. Đám trẻ kia vội vã bỏ chúng tôi xoay ra vây quanh thằng bé cởi trần. Thằng bé này không hề sợ hãi, chỉ cười nhạt:

- Tốt lắm! Cả đám cùng đánh thì càng tiện!


 
dấu chân trên cát 4


Vừa dứt lời, hắn đã xông đến tấn công ngay thằng đầu bọn. Thằng này cũng không phải tay vừa, hắn vừa đánh đỡ vừa quát tháo om sòm. Đám trẻ đồng bọn vội vàng xông vào tiếp tay, bụi cát bay mù mịt. Nhóm bạn tôi nhân lúc lộn xộn, vội kéo tôi bỏ chạy. Tuy không muốn đụng chạm nhưng tôi cũng không muốn thấy thằng bé mới đến bị ăn đòn nên ngần ngại không chịu đi. Tôi hy vọng có thể làm được một cái gì đó. Mấy đứa bạn tôi vừa chạy, vừa kêu lớn:

- Sinuhe, chạy mau lên!

Tôi chần chừ:

- Khoan đã, chúng ta không thể bỏ chạy như thế được.

Ngay lúc đó thằng bé cởi trần bị một đứa trong bọn xông đến ôm lấy chân, quật nó ngã xuống đất. Đám trẻ kia mừng rỡ vội xông đến đấm đá túi bụi. Nhìn thấy thế, tự nhiên tôi cảm thấy trong người nóng ran lên, không còn tự chủ được nữa. Tôi hét lên rồi xông vào trợ chiến. Tôi ôm lấy chân thằng đầu đảng, kéo nó ngã xuống đất, bất chấp những trận mưa đấm đá trút lên người. Không hiểu sao lúc đó tôi không cảm thấy đau đớn nữa mà chỉ thấy hung hăng kỳ lạ.

Bất ngờ những quả đấm thưa dần rồi những tiếng rên la đau đớn vang lên. Hình như đang có ai đỡ tôi dậy. Tôi giật mình mở choàng mắt ra thấy thằng bé cởi trần đang đỡ tôi đứng dậy, còn đám trẻ kia thì đang lăn lộn dưới đất. Thằng bé cởi trần nhìn tôi mỉm cười:

- Khá lắm! Mày can đảm lắm, nhưng tao không cần có đứa giúp. Tao có thể tự lo lấy thân được rồi.

Hắn thong thả bước đến bên thằng đầu bọn đang nằm rên la dưới đất:

- Thế nào? Chúng mày còn muốn nằm đó chơi hay sao? Có muốn ăn thêm mấy quả đấm nữa không?

Thằng bé kia hoảng hốt lồm cồm ngồi dậy kêu đồng bọn bỏ đi nhưng thằng bé cởi trần đã lạnh lùng:

- Không được, chúng bay phải để lại cần câu và rổ cá lại đây.

Mấy đứa bé tiu nghỉu như mèo cụt đuôi, bỏ lại "chiến lợi phẩm" rồi dắt díu nhau bỏ đi, nhưng tôi đã quay lại thằng bé cởi trần hỏi:

- Tại sao bạn làm thế?

Thằng bé cởi trần lạnh lùng:

- Chúng lấy cần câu của mày thì nay tao lấy cần câu của chúng chứ có gì lạ đâu?

- Như thế… không đúng.

- Cái gì? Chúng vừa đánh mày chảy máu mũi mà mày không muốn trả thù hay sao?

- Không, tôi không muốn như thế.

Thằng bé cởi trần nhếch miệng:

- Thế mày muốn gì?

Tôi do dự một lúc rồi ngập ngừng:

- Tôi nghĩ bạn nên trả lại cần câu cho chúng. Nếu bạn lấy cần câu của chúng thì bạn… có khác gì chúng đâu?

Thằng bé cởi trần trợn mắt nhìn tôi một lúc rồi quay qua đám trẻ kia:

- Chúng mày nhặt cần câu và cút ngay đi chỗ khác, tao đổi ý là có đứa ăn đòn thêm.

Đám trẻ kia vội vã nhặt cần câu và kéo nhau bỏ đi. Thằng bé cởi trần nhìn tôi từ đầu đến chân rồi thong thả hỏi:

- Tại sao mày lại… khác người như vậy?

Tôi bật cười vì hai chữ "tại sao". Đây vốn là câu quen thuộc trên đầu môi, chót lưỡi của tôi. Là một đứa bé hay thắc mắc, suốt ngày tôi thường hỏi cha mẹ tôi "tại sao" lại thế này hay "tại sao" lại thế kia, nhưng đây là lần đầu tôi bị hỏi "tại sao" và thấy mình không trả lời được.

Thằng bé cởi trần thong thả nhặt cần câu và rổ cá lên rồi hỏi tôi:

- Mày tên gì?

- Tôi là Sinuhe. Còn bạn tên gì?

- Tao là Horemheb. Phải chăng mày là con của y sĩ Sen Moot?

- Phải rồi. Thế còn bạn?

Horemheb ngần ngại một lúc rồi nói:

- Tao là con của… Bitha.

- Bitha? Phải chăng… Bitha, người bán bánh ngoài chợ?

Horemheb gật đầu ngượng nghịu:

- Phải rồi, Bitha… người bán bánh.

Thấy hắn có vẻ không sốt sắng khi nói về gia thế của mình nên tôi hỏi:

- Tại sao bạn lại không được… tự nhiên như thế?

Horemheb bực mình:

- Sao mày cứ hỏi "tại sao" mãi! Bán bánh thì có ra cái quái gì đâu!

Tôi ngạc nhiên và theo thói quen lại hỏi:

- Tại sao?

Horemheb im lặng như suy nghĩ một lúc rồi ngập ngừng:

- Đáng lẽ ra cha tao phải là một… sĩ quan hay ít ra cũng là một người lính chứ bán bánh thì có ra gì!

- Nhưng… tại sao? Đó là một nghề lương thiện.

Horemheb giận dữ:

- Lương thiện làm cái quái gì! Tao chỉ muốn cha tao là một người hùng thôi.

- Tại sao?

Horemheb nhìn tôi một lúc rồi chậm rãi:

- Mày không thể hiểu đâu. Cha mày là một y sĩ, dù không giàu có gì nhưng ít ra ông ta cũng được mọi người nể vì, kính trọng. Còn cha tao chỉ là một người bán bánh rong ngoài chợ, một kẻ tầm thường, hèn mọn, không ai thèm để ý đến.

- Nhưng như thế thì đã sao?

Horemheb trừng mắt vung tay lên đấm mạnh vào không khí:

- Đó là một điều không thể chấp nhận được. Tao không thể làm con một kẻ hèn mọn, lúc nào cũng khúm núm trước những mụ đàn bà vừa mua bánh vừa chê ỏng, chê eo. Tao không thể làm con một kẻ cúi rạp mình xuống cám ơn những tên nô lệ, vừa đi mua bánh cho chủ, vừa kỳ kèo bớt một thêm hai để ăn xén tiền chợ. Tao không thể làm con một kẻ quì mọp xuống năn nỉ những tên chủ nợ mập ú, chuyên cho vay lấy lãi cắt cổ. Tao không thể làm con một kẻ nịnh bợ những kẻ đi thâu thuế chợ vừa tham lam, vừa hống hách. Tao không thể là con của một thằng bán bánh tầm thường như thế được!

Tôi đứng im không biết phải nói gì để an ủi Horemheb. Đây là lần đầu tiên tôi biết giữ im lặng thay vì lên tiếng hỏi như thường lệ. Chúng tôi gật đầu chia tay nhau một cách ngượng nghịu, không ai nói thêm câu gì.

Chiều hôm đó, sau bữa cơm, tôi đã mang câu chuyện này ra kể cho mẹ tôi. Bà trầm ngâm một lúc rồi chép miệng:

- Tội nghiệp thằng Horemheb!

- Tại sao?

- Nó là một đứa bé đáng thương. Nó chưa biết gì về mình mà đã lo chạy đuổi theo những ảo tưởng điên rồ.

- Tại sao?

- Dù muốn hay không, nó cũng là một phần của cha mẹ nó. Nó không thể phủ nhận cha mẹ của nó được. Phủ nhận cha mẹ có khác gì phủ nhận chính mình.

- Tại sao?

- Này Sinuhe, một ngày nào đó con sẽ hiểu điều ta muốn nói.

Tôi sà vào lòng mẹ:

- Con thì không như thế đâu! Con rất hãnh diện được làm con của mẹ.

Không hiểu sao mẹ tôi bỗng bật lên khóc, bà tiếp tục khóc và ôm chặt lấy tôi một lúc rất lâu….


 
dấu chân trên cát 5



Về Tác Giả
Mika Waltari (1908-1979) là một nhà soạn kịch nổi tiếng, đã viết hơn tám mươi kịch bản cho sân khấu kịch nghệ Broadway.

Trong chuyến du lịch Hy Lạp, ông nghe kể về Sinuhe, một giai thoại phổ thông vẫn được lưu truyền trong dân gian xứ này. Ông đã tìm hiểu, tiếp xúc với các bô lão để ghi chép, thâu tập chi tiết về nhân vật lạ lùng này, rồi thêm vào đó một vài tình tiết với ý định sẽ dựng lên một vở kịch lớn nhưng nửa chừng, ông bỏ ý định và soạn thành cuốn tiểu thuyết The Egyptian (tạm dịch: Dấu chân trên cát). Xuất bản năm 1945, The Egyptian là một trong những cuốn sách có số bán rất chạy và đã được tái bản nhiều lần. Tuy là một tiểu thuyết hư cấu nhưng tác giả đã xây dựng nó từ những truyền thuyết trong dân gian, nên nó vẫn có giá trị trên địa hạt sử liệu và khảo cổ.

Cho đến nay, dù đã soạn hơn tám mươi vở kịch nổi tiếng nhưng The Egyptian vẫn là cuốn tiểu thuyết đầu tay và duy nhất của ông.



Về Dịch Giả:
Giáo sư Jonh Vũ tên thật là Vũ Văn Du, ông còn được nhiều người biết đến là dịch giả Nguyên Phong. Ông rời Việt Nam du học ở Hoa Kỳ từ năm 1968 và tốt nghiệp cao học ở hai ngành Sinh vật học và Điện toán. Ngoài công việc chính là một kỹ sư cao cấp tại Boeing trong hơn 20 năm, ông vẫn tiếp tục nghiên cứu trong vai trò nhà khoa học tại Đại học Camegie Mellon và Đại học Seattle.

Ông còn giảng dạy tại một số trường đại học quốc tế tại Trung Hoa, Hàn Quốc, Nhật Bản về lĩnh vực công nghệ phần mềm. Song song với vai trò một nhà khoa học, Nguyên Phong còn là dịch giả nổi tiếng của loạt sách về văn hóa và tâm linh phương Đông, chuyển thể từ nhiều tác phẩm của các học giả phương Tây sau quá trình tìm hiểu và khám phá các giá trị tinh thần từ phương Đông. Trong số đó, có thể kể: Hành trình về phương Đông, Ngọc sáng trong hoa sen, Hoa sen trên tuyết, Hoa trôi trên sóng nước, Huyền thuật và đạo sĩ Tây Tạng, Trở về từ cõi sáng, Đường mây qua xứ tuyết,…



 
thông tin cuối bài viết

 
     

 

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây