094.278.3333 - 0888.959.000

187 Bà Triệu - quận Hai Bà Trưng - Hà Nội

KHAI THỊ - HÒA THƯỢNG TUYÊN HÓA (Bộ 6 Quyển) KHAI THỊ - HÒA THƯỢNG TUYÊN HÓA (Bộ 6 Quyển) Tác Giả: Hòa Thượng Tuyên Hóa
Dịch: Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới
Nhà Xuất Bản: Tôn Giáo
Hình Thức: Bìa Mềm
Khổ Sách: 14,5x20,5cm
Năm Xuất Bản: 2018
Trọn Bộ: 6 Quyển
S001620 TUYÊN HÓA 450.000 đ Số lượng: 100 Bộ
  • KHAI THỊ - HÒA THƯỢNG TUYÊN HÓA (Bộ 6 Quyển)

  •  2455 Lượt xem
  • Mã sản phẩm: S001620
  • Giá bán: 450.000 đ

  • Tác Giả: Hòa Thượng Tuyên Hóa
    Dịch: Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới
    Nhà Xuất Bản: Tôn Giáo
    Hình Thức: Bìa Mềm
    Khổ Sách: 14,5x20,5cm
    Năm Xuất Bản: 2018
    Trọn Bộ: 6 Quyển


Số lượng
Lời Dẫn Nhập
Kính lễ Giác linh Thượng nhơn Tuyên Hóa, Kính chư Tôn túc truyền nhân của Hòa thượng, cùng quý độc giả gần xa. Chúng tôi, Tổ in ấn và Phát hành Kinh sách Thành hội Phật TP. Hồ Chí Minh – Giáo hội Phật giáo Việt Nam hữu duyên được đọc Bộ sách Khai Thị của Hòa thượng Tuyên Hóa, đây là một bộ sách quý ghi lại các bài Pháp ngữ cũng như các buổi nói chuyện của Hòa thượng trong những năm từ thập niên 50 đến thập niên 90 của thế kỷ thứ 20. Xuyên suốt bộ sách, ngài đã sử dụng giáo lý Phật Đà thông qua ngôn từ giản dị, minh chứng gần gũi nhằm khéo léo vận dụng sở chứng của mình để dung hội và làm toát lên hết yếu nghĩa về Thiền, Tịnh, Luật, Mật, Giáo, Tông. Không những thế trong bộ sách cũng có những bài toát lên sự am hiểu sâu sắc về Khổng giáo, Đạo giáo và vận dụng sự am hiểu đó để thính chúng có cái nhìn về đạo giải thoát; đồng thời trích dẫn điển tích kim cổ Đông, Tây cũng như quan điểm giáo dục, văn hóa, chính trị, kinh tế xã hội v.v... Theo chúng tôi bộ sách Khai Thị này là cẩm nang cho những ai muốn tu hành tìm về bảo sở và cũng là kim chỉ nam cho người hoằng truyền Chánh pháp.

 

Có thể nói, đây là bộ sách thể hiện tâm huyết là lời dạy chúng của Thượng nhơn Tuyên Hóa trên dưới 40 năm suốt chặng đường hoằng truyền Phật đạo. Xét thấy là một bộ sách quý nên chúng tôi quyết định tái bản lại bộ sách này. Ở lần tái bản này sẽ có một vài thay đổi nhỏ để hoàn chỉnh hơn ngưỡng mong các vị truyền nhơn của Hòa thượng hoan hỷ. Khi tiếp nhận, bộ sách gồm có 6 tập trong lần tái bản này để được gọn nhẹ trang sách chúng tôi tập hợp lại và chỉ chia bộ sách thành 4 tập nhưng nội dung vẫn không thay đổi. Ở các lần xuất bản trước, về tính thời gian chưa được liên kết, trong lần này xin được sắp xếp lại theo trình tự thời gian. Ở lần xuất bản trước, mỗi tập đều có bài nói về tiểu sử của Hòa thượng, nay xin chỉ đưa phần tiểu sử về đầu tập một của bộ sách.

Sự sắp xếp và thay đổi lại lần này không nằm ngoài mục đích để bộ sách hoàn chỉnh hơn. Hy vọng ở lần tái bản này, rất mong nhận được sự ủng hộ tìm đọc của quý độc giả và cũng rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các bậc Cao minh, truyền nhân của Hòa thượng và quý độc giả để những lần tái bản sau được thêm hoàn chỉnh. Xin mượn lời của Hòa thượng để thay lời kết: “Chúng ta niệm Phật, Phật cũng niệm chúng ta giống như đánh điện tín đến Phật A Di Đà vậy. Đó gọi là cảm ứng Đạo giao. Nếu chúng ta không niệm Phật thì Phật không có cách gì để nhiếp thọ được; thế nên, chúng ta phải trì niệm danh hiệu Phật”.
TP.HCM, cuối Thu năm 2011 - TM. BAN BIÊN TẬP
Sa-môn Thích Giác Liêm, Chắp tay Cẩn bạch.


 

Trích “Phật Pháp Là Thực Hành, Không Phải Chỉ Nói Suông”:
Đạo đức là căn bản làm người. Một khi có đạo đức rồi, chúng ta mới có thể đứng vững được. Ngày đêm như tên bắn, năm tháng như thoi đưa. Sóng trên sông, ngọn sau đẩy ngọn trước, cảnh đẹp mau tàn. Đời người tuổi trẻ qua nhanh, chẳng mấy chốc sẽ già chết hủy diệt, không lưu lại dấu vết, đủ thấy mọi thứ thật vô thường. Do mọi thứ vô thường nên mình phải mau tìm nơi quy túc. Quý vị rất là may mắn, sau khi tìm tòi truy đuổi, cuối cùng đã có lòng tin Phật. Tin Phật thì mình mới đến được chỗ Thường, Lạc, Ngã, Tịnh; tức cái vui rốt ráo nhất. Do đó, mình phải tin Phật. Nhưng tin suông chưa đủ, mà phải y theo giáo pháp tu hành. Nếu tin mà không tu thì cũng như bàn chuyện ăn cơm, hay đếm giùm tiền cho người, mà mình thì chẳng thấy no, hoặc chẳng giàu thêm. Cho nên người xưa có nói:

Đạo thị yếu hành,
Bất hành tắc yếu đạo hà dụng?
Đức thị yếu tu,
Bất tu tắc đức tòng hà lai?

Dịch là:

Đạo phải hành,
Không hành sao gọi là đạo.
Đức do tu,
Không tu đức sao thành.

Thế nên mình phải “cung hành thực tiễn”, thật sự tu hành. Thường đem hai chữ sanh tử treo giữa đôi mày và hai chữ “đạo đức” đặt dưới chân? Nói ra nghe có vẻ khó hiểu. Tại sao lại đem “đạo đức” đặt dưới chân? Vì đạo đức là gốc làm người, ví như là gốc của cây. Có đạo đức thì mình mới đứng vững, còn ngược lại, không có đạo đức thì mình như cây chẳng có gốc, không sao đứng vững đặng. Mình cần đem đạo đức ra thực hành thì nhân cách mới vững vàng, mọi sự mình làm tự nhiên sẽ thành công. Cho nên: “Đạo đức nhị tự, thị tố nhân căn bổn”.

Tức là đạo đức là căn bổn làm người. Sách Luận Ngữ nói: “Quân tử vu bổn, bổn lập nhi đạo sanh”. Tức là bậc quân tử chú trọng đến cái gốc, khi gốc vững thì nguồn đạo phát sinh. Chăm lo cái gốc thì mới sanh được bông lá, hoa trái. Đó là lời minh huấn của Cổ nhân. Như đã nói lúc nãy, thời gian trôi nhanh như tên bắn mà ta nào hay. Chuyện quá khứ đã qua thì đành vậy, song chuyện tương lai, mình cần phải lập ra tông chỉ, không thể để nó trôi qua một cách mê mờ được. Tông chỉ của chùa Tây Lạc Viên là đề xướng Pháp môn Tịnh độ; chủ trương tinh tấn niệm Phật. Thường lệ mỗi năm vào ngày 19 tháng 6 và ngày 17 tháng 11 Âm lịch thì chùa cử hành Pháp hội Quán Âm và Thất Di Đà.

 

Song quý vị không thể chỉ tham gia cho có lệ thôi. Năm nay phải tinh tấn hơn năm trước, lúc nào cũng phải chuyên tâm, trong bảy ngày này, mỗi giờ, mỗi phút đều phải siêng năng niệm danh hiệu Bồ-tát mà không biết mỏi mệt. Khi niệm Bồ-tát, mình chớ mong Bồ-tát niệm mình. Tại sao vậy? Vì trong thời gian đả thất, nếu mang danh là tham gia đả thất mà mình không siêng năng niệm hồng danh, lòng lại đầy tạp niệm thì chỉ làm cho Đức Bồ-tát Đại từ Đại bi sẽ thấy tội nghiệp: Rằng mình đã không thành tâm đả thất, rằng mình thật đáng thương xót. Cho nên đại chúng phải khẩn thiết thành tâm mà niệm và phát lòng từ bi hỷ xả. Được như vậy tôi khẳng định rằng Bồ-tát chắc chắn sẽ gia hộ cho quý vị.

Xưa nay, Tây Lạc Viên chưa từng phát thiệp mời đả thất, mà là đại chúng tự nguyện phát tâm đến dự. Tinh thần tự động phát tâm như vậy rất tốt, đáng được tuyên dương. Song, mình đừng để sự chơn thành này bị lãng phí, mà phải phát nguyện niệm cho tới khi “thủy lạc, thạch xuất”, nghĩa là nước cạn, đá lộ ra. Niệm đến lúc Bồ-tát hiện thân thuyết pháp. Vậy mới không uổng công tham gia đã thất. Hôm nay là ngày đầu tiên của Pháp hội. Tôi chúc quý vị năm nay sẽ gặt hái được nhiều thành quả. Ngược lại, tôi sẽ đòi món nợ này với quý vị. Nếu món nợ này tính không xong, thì đừng hối hận! Thôi được rồi, tôi không nói đùa với quý vị nữa, hãy niệm nhiều danh hiệu Bồ-tát là hơn!
Giảng ngày 13 tháng 6 năm 1958, Nhân dịp lễ Quán Âm Thất Tây Lạc Viên, Hồng Kông.


 


Sơ Lược Tiểu Sử Hòa Thượng Tuyên Hóa
Hòa Thượng họ Bạch, tên tục là Ngọc Thư, Pháp danh là An Từ, tự Độ Luân, pháp hiệu Tuyên Hóa do Đại lão Hòa thượng Hư Vân đặc biệt tặng cho khi Ngài thọ lãnh sứ mạng làm người kế thừa truyền Pháp đời thứ chín của Thiền tông Quy Ngưỡng. Ngài sinh ngày 16 tháng 3 năm Mậu Ngọ (1918), tại Kiết Lâm, huyện Song Thành, tỉnh Tùng Giang, Đông Bắc Trung Hoa (tức Mãn Châu). Thân phụ Ngài tên Phú Hải, chuyên nghề nông; thân mẫu thuộc dòng dõi họ Hồ, sanh được tám người con, năm trai ba gái, và Ngài là con út.

Thân mẫu Ngài thọ chay trường, niệm Phật chẳng hề gián đoạn. Một đêm nọ bà mộng thấy Đức Phật A Di Đà hiện thân, phóng hào quang chiếu sáng khắp thế giới, chấn động thiên địa. Giật mình tỉnh giấc, bà ngửi thấy mùi hương kỳ diệu khắp phòng rồi sau đó thọ thai và hạ sanh Ngài. Ngài vừa ra đời liền khóc suốt ba ngày đêm; có lẽ Ngài cảm nhận được nỗi thống khổ của kiếp người ở thế giới Ta-bà này vậy. Năm 11 tuổi, một hôm cùng chúng bạn dạo chơi, Ngài chợt trông thấy một em bé miệng ngậm, mắt nhắm, nằm bó trong đống rơm, gọi mà đứa bé chẳng đáp, rờ thì chẳng còn hơi thở. Ngài lấy làm khó hiểu vô cùng nên hỏi chúng bạn. Có đứa hiểu biết liền nói: “Đứa bé đã chết rồi!”. Song Ngài vẫn vô cùng ngạc nhiên, không hiểu thế nào là chết.

Về nhà, Ngài thưa hỏi mẫu thân, bà dạy: “Phàm là người, ai cũng phải chết. Có kẻ chết già, có kẻ chết vì bệnh, cũng có kẻ chết vì tai nạn. Bất luận là giàu sang hay nghèo hèn, ai ai rốt cuộc cũng phải chết cả!”. Ngài lại thưa: “Như vậy, có cách gì thoát được sự chết chăng?”. Bấy giờ, trong nhà có vị khách xưa kia từng tu đạo, đỡ lời đáp rằng: “Chỉ có cách tu hành, hiểu rõ tự tâm, thấu suốt bổn tánh, thì mới có thể chấm dứt sanh tử, thoát vòng luân hồi, thành tựu Chánh giác, chứng được Vô sanh”. Tuy lúc đó Ngài còn nhỏ tuổi, song đối với lời vị khách nói, Ngài tỉnh ngộ sâu xa, nên quyết chí xuất gia tu hành.


 

Khi Ngài mang chuyện xuất gia thưa với thân mẫu, bà dạy: “Xuất gia là điều tốt lắm, song không phải là chuyện dễ làm. Cần có thiện căn, có đại nguyện lực, phát đại Bồ-đề tâm, thì mới có thể thành tựu Vô thượng đạo. Nay con có lòng vậy, ta hết sức đồng ý. Song, nay ta đã già, mà các anh chị con đều đã tự lập; vậy con nên ở lại để phụng dưỡng cha mẹ; khi ta mất rồi, con xuất gia tu hành cũng chưa muộn”. Vâng lời mẹ dạy. Sau đó, hằng ngày Ngài thường theo thân mẫu lạy Phật. Lạy Phật xong, Ngài lạy cha mẹ. Rồi vì nhận thấy thế giới này còn lớn hơn cả cha mẹ, nên Ngài hướng về trời, đất, vua, sư trưởng mà lạy. Ngài lại nghĩ đến những người tốt trên thế giới mà lạy, thầm tạ ơn họ về các việc thiện họ đã làm.

Nhận thấy những người ác thật đáng thương, Ngài lại vì họ mà lạy, mong sao nghiệp chướng của họ được giảm bớt và sớm biết hối cải. Mỗi ngày Ngài lại nghĩ thêm những người khác để lạy; nên về sau, bất kể thời tiết, mỗi ngày Ngài đều đặn lạy 837 lạy vào buổi sáng và 837 lạy vào buổi tối. Ngày lại ngày, Ngài cung kính phụng dưỡng song thân như đối với Phật vậy. Chẳng bao lâu lòng hiếu thảo của Ngài đã đồn xa, mọi người đều gọi Ngài là Bạch Hiếu Tử (người con chí hiếu họ Bạch).




Năm 19 tuổi, thân mẫu Ngài qua đời. Sau khi chu toàn việc mai táng, Ngài đến chùa Tam Duyên lạy Đại lão Hòa thượng Thường Trí làm Thầy, và xuống tóc xuất gia. Sau đó, Ngài về lại mộ phần thân mẫu thủ hiếu trong ba năm. Suốt thời gian ấy, Ngài sống trong một túp lều tranh nhỏ, ngày ngày tọa thiền, đọc tụng Kinh điển Đại thừa và niệm danh hiệu Phật A Di Đà. Rất nhiều lần Ngài ngồi thiền rồi nhập định, liên tiếp trong nhiều tuần lễ chẳng rời thiền sàng, trong túp lều tranh Ngài an nhiên, tĩnh mặc trong thiền định!

Có lần Ngài đang tọa thiền thì chợt có vị khách đến viếng. Vị khách ấy, ngạc nhiên thay, chính là Lục Tổ Huệ Năng! Đức Tổ Sư dạy Ngài rằng trong tương lai Ngài sẽ tới nước Mỹ để độ sanh, rằng ở phương Tây Ngài sẽ gặp nhiều kẻ hữu duyên có thể hoằng dương Phật pháp, và Ngài sẽ độ vô lượng vô biên chúng sanh. Mãi đến lúc Đức Tổ Sư từ biệt quay đi rồi, Ngài mới choàng tỉnh, sức nhớ rằng Đức Huệ Năng vốn là người đời Đường, khoảng 1.200 năm về trước!

 

Năm 1946, sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc, tình trạng giao thông trong nước bắt đầu dễ dàng trở lại. Ngài bèn tìm xuống phía Nam để đến chùa Nam Hoa ở Tào Khê, tỉnh Quảng Đông, đảnh lễ Đại lão Hòa thượng Hư Vân, và đến núi Phổ Đà để thọ Cụ Túc giới. Cuối cùng, trải hơn 3.000 dặm, Ngài đã được bái kiến Đại lão Hòa thượng Hư Vân, bậc Đại Thiện Tri Thức mà Ngài bấy lâu ngưỡng mộ. Vừa nhìn thấy Ngài, Đại lão Hòa thượng lúc ấy đã 109 tuổi, liền nhận ra ngay sự chứng ngộ của Ngài. Khi đó Đại lão Hòa thượng nói: “Như thị, như thị”, và Ngài cũng đáp lại: “Như thị, như thị!”. Biết Ngài là bậc “Pháp khí”, Lão Tổ sư Hư Vân ấn chứng sở đắc của Ngài, và Ngài chính thức trở thành vị Tổ thứ chín của Thiền tông Quy Ngưỡng.

Sau đó, Tổ dạy Ngài ở lại đảm nhận chức Viện trưởng Viện Giới Luật chùa Nam Hoa. Năm 1949, Ngài từ giã chùa Nam Hoa, lên đường sang Hương Cảng, và sống trong một sơn động biệt lập. Chẳng bao lâu, có vô số Tăng lữ từ Trung Hoa Đại Lục qua Hương Cảng tỵ nạn và cần sự giúp đỡ của Ngài. Ứng với nhân duyên, Ngài rời sơn động, sáng lập Phật Giáo Giảng Đường, chùa Tây Lạc Viên và Từ Hương Thiền Tự, cùng trợ giúp xây dựng và trùng tu nhiều đạo tràng khác. Trong suốt mười hai năm ở Hương Cảng, Ngài là tấm gương sáng khổ hạnh, tinh tấn tu hành, vì pháp quên mình. Ngài đã ảnh hưởng vô số thiện nam tín nữ, khiến họ phát tâm Bồ- đề, quy y Tam Bảo, ủng hộ Phật pháp.

Hòa thượng Tuyên Hóa vốn nuôi chí nguyện đem Chánh pháp truyền bá đến khắp nơi trên toàn thế giới, nên năm 1961, Ngài sang Úc châu hoằng pháp; và năm sau 1962, Ngài đến San Francisco - Mỹ. Tại đây, nơi một nhà kho nhỏ, Ngài kiên trì tu hành trong im lặng, chờ đợi cơ duyên hằng dương Đạo pháp. Lúc ấy, Ngài tự gọi mình là Mộ Trung Tăng (nhà Sư trong phần mộ), và Hoạt Tử Nhân (người đã chết nhưng còn sống). Năm 1968, biết cơ duyên đã đến, Ngài nói: “Một đóa hoa sẽ nở ra năm cánh”. Mùa hè năm ấy, Ngài chủ trì Pháp hội giảng Kinh Lăng Nghiêm trong 96 ngày.

Khi Pháp hội kết thúc, quả nhiên có năm người Mỹ xin xuất gia với Ngài. Từ đó, Ngài chủ trì nhiều Pháp hội khác giảng giải Tâm Kinh, Kinh Địa Tạng, Kinh Pháp Hoa, Kinh Pháp Bảo Đàn, v.v.. Năm 1971, Ngài giảng bộ Kinh tối cao của Đại thừa - Kinh Hoa Nghiêm. Song song với việc giảng Kinh thuyết Pháp, Ngài còn làm vô số công đức độ sanh khác. Năm 1976, Ngài thành lập Vạn Phật Thánh Thành, nơi này là cơ sở để hoằng dương Phật pháp tại Mỹ. Tại Thánh Thành, Ngài xây dựng chế độ tùng lâm, đào tạo Tăng Ni học chúng, tạo nhân duyên thù thắng cho sự chơn chánh tu hành. Ngài chủ trương rằng tất cả Phật tử cần phải đoàn kết lại và nên dung hợp Nam, Bắc tông.

Vì thế, nhiều dịp truyền thọ Tam Đàn Đại Giới tổ chức tại Vạn Phật Thánh Thành là do chư Cao tăng Đại thừa và Tiểu thừa hợp lực chủ trì. Với tinh thần “vì pháp quên mình”, Hòa thượng không quản khó nhọc, thường xuyên đến các đạo tràng trong và ngoài nước để hoằng dương Phật pháp. Ngài được mọi giới kính ngưỡng vì nếp sống khổ hạnh và nghiêm trì Giới Luật của Ngài. Trong thời Mạt pháp mà nhiều người không tôn trọng Giới Luật, Ngài đã nêu gương sáng và khuyến khích nếp sống khổ hạnh bằng cách chỉ ăn mỗi ngày một bữa vào giờ Ngọ và ban đêm thì ngủ ngồi chứ không nằm.

Bình sanh, Ngài sống nhẫn nhục, khoan dung, nhịn ăn nhiều lần để hồi hướng công đức cho chúng sanh. Cuộc khủng hoảng hỏa tiễn ở nước Cuba vào năm 1962 đã xảy ra không bao lâu sau khi Ngài đến Hoa Kỳ. Ngài đã tuyệt thực năm tuần để hồi hướng cho nền hòa bình thế giới. Vào dịp Ngài du hành Đài Loan năm 1989, Ngài đã nhịn ăn ba tuần để hồi hướng cho dân chúng Đài Loan. Sau đó, Ngài lại đi hoằng pháp tại nhiều nước châu Âu. Mặc dầu tuổi Ngài đã cao nhưng Ngài vẫn không muốn nghỉ ngơi tịnh dưỡng. Suốt ba mươi năm liên tục, Ngài đã đăng đàn thuyết pháp và giảng luận Kinh điển Phật giáo, giương cao ngọn đèn trí huệ để soi đường cho chúng sanh đang chìm đắm trong đêm tối của thời đại Mạt pháp này.

Chính trong lúc Ngài đang bệnh để gánh chịu khổ nạn cho chúng sanh, Ngài vẫn kiên trì theo đại nguyện diễn dịch Kinh điển Phật giáo. Ngày 07 tháng 6 năm 1995, Hòa Thượng Tuyên Hóa thị hiện viên tịch tại Los Angeles, Mỹ; trao lại cho các đệ tử ba trách nhiệm quan yếu:
(1) Tiếp tục hoằng dương Phật pháp,
(2) Phiên dịch Kinh điển Phật giáo,
(3) Hoàn mãn sự nghiệp giáo dục.

Vâng theo di huấn của Ngài, tứ chúng đệ tử tại các đạo tràng thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới đều chuyên tâm trì tụng Kinh Hoa Nghiêm và niệm Phật suốt 49 ngày kể từ hôm Ngài viên tịch. Ngày 12 tháng 6 năm 1995, Lễ Nhập Quan được cử hành tại Long Beach Thánh Tự; và đến ngày 16 tháng 6, Kim quan của Ngài được cung thỉnh về Vạn Phật Thánh Thành. Tại đây, Đại Lễ Truy Ân được tổ chức từ ngày 26 đến ngày 28 tháng 7 năm 1995, trong niềm thương tiếc của mọi người. Ngày 28 tháng 7 năm 1995, Đại Lễ Trà Tỳ được cử hành trọng thể tại Vạn Phật Thánh Thành trước sự xúc động của hàng ngàn thiện nam tín nữ. Và hôm sau, sáng ngày 29 tháng 7, tro cốt của Ngài được rải trên địa phận của Vạn Phật Thánh Thành đúng như lời di huấn của Ngài:
Khi tôi đến, tôi không có gì cả; khi tôi đi, tôi vẫn không có gì cả. Tôi không muốn để lại dấu vết gì trên thế gian. Tôi từ hư không đến. Tôi sẽ trở về hư không!”.

Dù cho Ngài không muốn để lại một dấu vết nào trên thế gian này, nhưng công đức hoằng pháp tại phương Tây, phiên dịch Kinh điển, thiết lập Đạo tràng và xây dựng Học đường của Ngài lúc còn tại thế đã gieo hạt giống Bồ-đề và đã gây được ảnh hưởng sâu rộng đến các tầng lớp dân chúng phương Tây. Những dấu ấn đó của Ngài sẽ không bao giờ phai mờ với thời gian. Ngày 23 tháng 6 năm 1996, đúng một năm sau ngày Hòa thượng Tuyên Hóa viên tịch, Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới long trọng tổ chức Lễ Cung Thỉnh Xá lợi Hòa thượng về các Đạo tràng. Hòa thượng Tuyên Hóa đã vĩnh viễn ra đi, nhưng trong tâm trí mọi người vẫn âm vang lời di huấn của Ngài: “Hãy quét sạch tất cả các pháp, ly khai tất cả các tướng!”.
     

 

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây