094.278.3333 - 0888.959.000

187 Bà Triệu - quận Hai Bà Trưng - Hà Nội

TỪ BI THỦY SÁM PHÁP - HT THÍCH HUYỀN DUNG TỪ BI THỦY SÁM PHÁP - HT THÍCH HUYỀN DUNG Việt Dịch: Thích Huyền Dung 
Nhà Xuất Bản: Tôn Giáo
Số Trang: 182 Trang
Hình Thức: Bìa Mềm 
Khổ: 15,5x23cm
Năm XB: 2021
Độ Dày: 1cm
TBTS KINH TỤNG 35.000 đ Số lượng: 1000100 Quyển
  • TỪ BI THỦY SÁM PHÁP - HT THÍCH HUYỀN DUNG

  •  16335 Lượt xem
  • Mã sản phẩm: TBTS
  • Giá bán: 35.000 đ

  • Việt Dịch: Thích Huyền Dung 
    Nhà Xuất Bản: Tôn Giáo
    Số Trang: 182 Trang
    Hình Thức: Bìa Mềm 
    Khổ: 15,5x23cm
    Năm XB: 2021
    Độ Dày: 1cm


Số lượng
"Tội từ tâm khởi cũng từ tâm diệt
 Tội diệt tâm không cả hai đều hết"

 "Nguyện nghiệp chướng, báo chướng,
 Phiền não chướng, ba chướng tiêu trừ.
 Nguyện tân duyên, cựu duyên,
 Oan trái duyên, mọi duyên giải thoát."

TIỂU DẪN
Thủy sám là tên tắt, do chính tác giả dùng trong văn. Tên tắt này gọi đủ là Từ Bi Thủy Sám Pháp. Sám pháp, gọi tắt là sám, nghĩa là phương pháp sám hối. Phương pháp này mệnh danh Từ bi thủy, gọi tắt là thủy, nghĩa là nước từ bi. Tại sao mệnh danh như vậy thì bài Tựa có nói rõ.  So với bản in thứ nhất, và thứ nhì, bản in thứ ba này chỉ để phần dịch nghĩa, bỏ phần dịch âm.  Nguyên văn Thủy sám, mà bản in thứ hai đối chiếu để chữa, nằm trong Đại tạng kinh, quyển 45, các trang 967-978, mang số hiệu 1910.

 
từ bi thủy sám pháp 1 min


Thủy sám có 2 bản chú thích xưa, vào đời Thanh của Trung hoa, và 1 bản mới. 2 bản xưa, 1 của ngài Trí chứng, 1 của ngài Tây tôn. Cả 2 cùng nằm trong Tục tạng kinh, sách 129, liên tiếp từ tờ 145 đến tờ 263. Còn bản mới là của ngài Đế nhàn, nằm trong Đế nhàn đại sư di tập, trọn tập 10. Trong 3 bản chú thích này, bản trước nhất của ngài Trí chứng, cẩn trọng hơn cả. Sự sửa chữa trong bản in thứ hai đã tham chiếu tất cả tài liệu trên đây.  Ký hiệu dẫn dụng sẽ là, thí dụ: Chính 45/967, là trang 967, quyển 45 của Đại tạng kinh bản Đại chính; Vạn 129/145, là tờ 145, sách 129 của Tục tạng kinh bản chữ Vạn. Thủy sám không nêu đại đề tiểu đề, nhưng trong lời văn lại có đủ và rõ. Nay tôi căn cứ lời văn ấy mà nêu đại đề tiểu đề cho dễ nhận. Khi tụng, chỉ tụng những chữ lớn. Mọi chữ nhỏ không tụng.



DUYÊN KHỞI
Thiết nghĩ ngoài nhng Kinh, Luật, Luận của Thánh giáo đã phiên dịch, nhiều sách vở của Hiền nhân chế tác về sau đều do nơi sự cảm ứng mà làm ra cả. Nếu riêng từng phẩm loại mà nói thì không dễ gì kể ra cho hết được. Ngay như bản Kinh văn này mà gọi là Từ Bi Thủy Sám Pháp, tôi xin nói rõ đến căn do. Thuở xưa, về triều vua Đường Ý Tôn có một vị quốc sư hiệu là Ngộ Đạt, tên là Tri Huyền. Lúc chưa hiển đạt, ngài thường gặp gỡ một nhá sư ở đất Kinh sư trong một ngôi chùa nọ. Nhà sư ấy mắc bệnh ca-ma-la (bệnh cùi) ai cúng gớm, chỉ có ngài Tri Huyền là thường gần gũi hỏi han, không hề nhàm chán. Nhân khi chia tay, nhà sư vì quá cảm kích phong thái của ngài Tri Huyền mới dặn rằng:

- Sau này ông có nạn chi nên qua núi Cửu Lũng tại Bành Châu đất Tây Thục tìm tôi và nhớ trên núi ấy có hai cây tùng làm dấu chỗ tôi trú ngụ. Sau đó, ngài Ngộ Đạt quốc sư đến ở chùa An Quốc thì đạo đức của ngài càng vang khắp. Vua Ý Tôn thân hành đến pháp tịch nghe ngài giảng đạo. Nhân đó vua mới ân tứ rất hậu cho ngài cái pháp tọa bằng gỗ trầm hương và từ đó trên đầu gối của ngài bỗng nhiên mọc mụn ghẻ tựa như mặt người, đau nhức khôn xiết! Ngài cho mời tất cả các bậc danh y, nhưng không ai chữa được. Nhân ngài nhớ lời dặn trước bèn đi vào núi mà tìm.
Trên đường đi, trời đã mờ tối, trong khoảng âm u mây bay khói tỏa mịt mù, ngài nhìn xem bốn phía, bỗng thấy dạng hai cây tùng, ngài mới tin rằng lời ước hẹn xưa không sai. Ngài liền đến ngay chỗ đó, quả nhiên thấy lầu vàng điện ngọc lộng lẫy nguy nga, ánh quang minh chói rọi khắp nơi. Trước cửa, nhà sư đang đứng chờ đón ngài một cách thân mật. Nhân ở lại đêm, ngài Ngộ Đạt mới tỏ hết tâm đau khổ của mình. Nhà sư ấy nói:
- Không hề gì đâu, dưới núi này có một cái suối, sáng ngày rửa mụn ghẻ ấy khỏi ngay
Mờ sáng hôm sau, một chú tiểu đồng dẫn ngài ra ngoài suối. Ngài vừa bụm nước lên rửa thì mụn ghẻ kêu lên:
- Đừng rửa vội. Ông học nhiều biết rộng, đã khảo cứu các sách cổ kim mà có từng đọc đến chuyện Viên Áng, Tiều Thố chép trong bộ Tây Hán chưa?
- Tôi có đọc.
- Ông đã đọc rồi có lẽ nào lại không biết chuyện Viên Áng giết Tiều Thố vậy. Thố bị chém ở chợ phía Đông oan ức biết dường nào. Đời đời tôi tìm cách báo thù ông, song đã mười kiếp ông làm bậc cao Tăng, giới luật tinh nghiêm, nên tôi chưa tiện bề báo oán được. Nay vì ông được nhà vua quá yêu chuộng nên khởi tâm danh lợi làm tổn giới đức, tôi mới báo thù được ông. Nay nhờ ngài Ca Nặc Ca Tôn giả lấy nước pháp Tam muội rửa oán cho tôi rồi, từ đây trở đi tôi không còn báo oán ông nữa.

Ngài Ngộ Đạt nghe qua, hoảng sợ liền vội vàng bụm nước dội rửa mụn ghẻ làm nhức nhối tận xương tủy, chết giấc hồi lâu mới tỉnh. Khi tỉnh lại thì không thấy mụn ghẻ ấy nữa. Nhân đó ngài mới biết Thánh hiền ẩn tích kẻ phàm tình không thể lường được. Ngài muốn trở lên lạy tạ vị sư, nhưng ngó ngoảnh lại thì ngôi bảo điện kia đã biến mất tự bao giờ. Vì thế, ngài lập một cái thảo am ngay chỗ ấy và sau trở thành một ngôi chùa. Đến năm Chí Đạo triều nhà Tống mới sắc hiệu là "Chí Đức Thiền Tự". Có một vị cao Tăng làm bài ký sự ghi chép việc này rõ ràng.

 
từ bi thủy sám pháp 2 min


Khi đó, ngài Ngộ Đạt nghĩ đến nỗi oan trái đã bao đời nếu không gặp Thánh nhân thì do đâu khỏi được. Vì cảm niệm cái ơn tế độ lạ lùng ấy, ngài mới thuật ra Pháp Sám này để mai chiều lễ tụng, sau truyền bá khắp thiên hạ. Ba quyển Sám đây tức là bài văn của ngài làm ra lúc đó vậy. Nghĩa chính của bài văn này là lấy nước Tam muội rửa sạch nghiệp oan khiên nên mới đặt tên là Thuỷ Sám. Lại ngài Ngộ Đạt cũng vì cảm điềm dị ứng của đức Ca Nặc Ca nên dùng tên ấy mà đặt tên cho bộ sám văn này để đáp cái thâm ân kia. Nay tôi kể rõ sự thật và nêu công của tiên đức để cho những người khi lật bộ sám văn này, hoặc lễ, hoặc tụng, đều biết được sự tích của tiền Hiền vì lẽ nhân quả tuy nhiều kiếp cũng không sai chạy.


TRÍCH ĐOẠN:
PHẦN NGHI LỄ
(Mọi người đều chỉnh tề đứng trước Tam Bảo mật niệm rằng)
TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN
Án Lam Sa Ha. (3 lần)
(Chủ sám đọc)
Hết thảy cung kính: Dốc lòng kính lễ mười phương pháp giới thường trụ Tam bảo. ( 3 lần )
(Mọi người quỳ nguyện hương)
Nguyện đem lòng thành kính,
Gửi theo đám mây hương.
Phảng phất khắp mười phương.
Cúng dường ngôi Tam Bảo.
Thề trọn đời giữ đạo,
Theo tự tánh làm lành,
Cùng pháp giới chúng sanh.
Cầu Phật từ gia hộ ;
Tâm Bồ-đề kiên cố.
Xa bể khổ sông mê.
Chóng quay về bờ giác.
Cúng dường đoạn: Dốc lòng kính lễ mười phương pháp giới thường trụ Tam Bảo. (1 lần)
(Mọi người đứng dậy chấp tay tán Phật)

 
từ bi thủy sám pháp 3


Đấng Pháp vương Vô thuợng,
Ba cõi chẳng ai bằng,
Thầy dạy khắp trời người,
Cha lành chung bốn loài,
Quy y trọn một niệm,
Dứt sạch nghiệp ba kỳ,
Xưng dương cùng tán thán.
Ức kiếp không cùng tận.

Án phạ nhựt la vật. (3 lần)
Chí tâm đảnh lễ, Tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vị lai, Chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng thường trụ Tam Bảo. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ, Sa bà Giáo chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ, Tây Phương Cực Lạc Giáo Chủ A Di Đà Phật. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ, Đương Lai Giáo chủ Di Lặc Tôn Phật. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ, Đại Hạnh Phổ Hiền Vưong Bồ Tát. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ, Đại Lực Dại Thế Chí Bồ Tát. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ, Ca Nhã Ca Bồ Tát. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ, Ngộ Đạt Quốc Sư Bồ Tát. (1 lạy)
Con nay xin vì bốn ơn ba cõi, pháp giới chúng sanh, nguyện xin ba chướng tiêu trừ chí thành sám hối … (1 lạy)
(Cùng quỳ để Sám hối)

 
từ bi thủy sám pháp 4 min


Chúng con xin chí thành sám hối :
Xưa kia gây nên bao ác nghiệp.
Đều vì ba nghiệp tham, sân, si.
Bởi thân, miệng, ý phát sanh ra.
Hết thảy con nay xin Sám hối.

Sám hối đoạn: Dốc lòng kính lễ Tam bảo thường ở khắp mười phương (1 lạy)
(Đồng quỳ: Chủ sám thỉnh)
Kính nghe: Lòng từ mẫn hằng vì muôn vật, tâm Bi nguyện khéo độ quần sanh.
Hai chữ Từ Bi làm tiêu hết muôn nghìn tội lỗi. Một lời niệm Phật cũng diệt trừ trăm vạn oan khiên.
Nguyên nhân làm ra văn Thủy sám này, là do Viên Áng, Tiêu Thố, hai người vì kết thành mối oan khiên, nên nghiệp quả kia khó tránh.
Dưới bóng song tùng, ngài Ca Nhã hiện Phạm thể đoan nghiêm, trong ao Tam muội ngài Ngộ Đạt thoát oan sang (mụn hình mặt người mọc nơi đầu gối), khổ nạn. Từ tâm hướng về thiện niệm, vì thế nên đất hiện suối thơm. Văn Thủy Sám này mở đầu là nguyên do từ đó.

Sở dĩ, một giọt nước thấm nhuần lại là phương thuốc hay thoát khổ, một lời kêu Sám hối thật là đạo tối yếu trừ khiên; khả dĩ đền đáp được bốn ơn sâu; khà dĩ cứu vớt cực khổ nơi ba đường; khả dĩ gỡ mối oan khiên trong nhiều kiếp. Công đức Sám ma ấy, khen ngợi mãi khôn cùng.
Hôm nay đàn trang nghiêm tịnh, tiệc pháp kính bày. Quy mạng mười phương Điều ngự, kính lễ Phổ Hiền nguyện vương, vận tưởng hương hoa, một lòng dâng cúng. Muốn cho căn lành trong sạch, trước nên nghiệp chướng tiêu trừ. Cúi mong Đại Từ Bi trông xuống rủ lòng soi xét.

Nam mô Cầu Sám Hối Bồ Tát Ma ha tát. (3 lần)
(Chủ sám và mọi người ngồi, cùng tụng theo nhịp mõ)

LÝ DO SÁM HỐI
Hết thảy chư Phật, vì thương chúng sinh, đã nói tổng quát về Từ Bi Thủy Sám Pháp, bằng cách đem nước từ bi tam muội rửa sạch tội lỗi. Lý do là vì phiền não con người quả thật quá nặng, ai mà không tội, ai chẳng lỗi lầm? Phàm phu ngu muội, vô minh khuất lấp, thân gần bạn xấu, phiền não loạn tâm, bẩm tính si mê, buông thả tự thị. Không tin Phật đà, không tin Phật pháp, không tin Thánh tăng, không hiếu cha mẹ, họ hàng bà con. Tuổi trẻ phóng túng, tự kiêu tự thị. Đối với tài sản, ca nhạc nữ sắc, lòng sinh đam mê, ý nổi phiền não. Bạn với phàm tục, thân với kẻ ác, không biết đổi bỏ. Hoặc là sát sinh, hoặc là rượu chè, hoặc lại ngu si, đồng đẳng kẻ ác, làm các nghịch tội, phá các tịnh giới. Một cách tổng quát, tội lỗi quá khứ, cũng như ác nghiệp trong đời hiện tại, chúng con ngày nay chí thành sám hối, những điều chưa phạm nguyện không dám làm.

NHỮNG ĐIỀU SÁM HỐI
Chúng con ngày nay sở dĩ sám hối, là vì vô thỉ cho đến hiện tại, ở trong cương vị của kẻ phàm phu, bất luận sang hèn, sắc thái tội lỗi thật là vô lượng. Hoặc do ba nghiệp mà tạo tội ác, hoặc do sáu căn mà sinh lỗi lầm, hoặc vì nội tâm tư duy bất chính, hoặc vì ngoại cảnh làm cho mê hoặc, tội lỗi như vậy tăng lên cho đến mười thứ ác nghiệp, tám vạn bốn ngàn trần lao phiền não.  Sắc thái tội lỗi tuy thật vô lượng, đại thể mà nói, không ngoài ba thứ, một là phiền não, hai là ác nghiệp, ba là khổ báo. Cả ba thứ này có thể trở ngại tuệ giác giải thoát của các thánh giả, lại còn trở ngại quả báo tốt đẹp của cả nhân thiên, nên trong khế kinh mệnh danh ba chướng. Và cũng vì vậy, chư Phật Bồ tát dạy cách áp dụng phương pháp sám hối để trừ diệt đi. Diệt được ba chướng thì sáu giác quan, mười thứ ác nghiệp, cho đến tám vạn bốn ngàn trần lao đều sạch tất cả.

 
từ bi thủy sám pháp 5


TỤNG CHÚ ĐẠI BI
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại Đại bi tâm đà-la-ni. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam Mô a rị đa, Bà lô yết đế thước bác ra da, Bồ đề tát đoả bà da, Ma ha tát đoả bà da, Ma ha ca lô ni ca da. Án, Tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát toả. Nam mô tất kiết lật đoả y mông a rị da, Bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì, hê rị ma ha bàn đa sa mế, Tát bà a tha đậu du bằng, A thệ dựng, Tát bà tát đa, na ma bà già, Ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, Ma ha Bồ đề tát đoả, Tát bà tát bà, Ma ra ma ra, Ma hê ma hê rị đà dựng, Cu lô cu lô yết mông, độ lô độ lô phạt xà da đế, Ma ha phạt xà da đế, Đà ra đà ra, Địa rị ni, Thất Phật ra da, Dá ra dá ra. Mạ mạ phạt mạ ra, Mục đế lệ, Y hê y hê, Thất na thất na, A ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, Hô lô hô lô ma ra, Hô lô hô lô hê rị. Ta ra ta ra, Tất rị tất rị, Tô rô tô rô, Bồ đề dạ bồ đề dạ, Bồ đà dạ bồ đà dạ, Di đế rị dạ, Na ra cẩn trì, Địa rị sắt ni na. Bà dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ ,ta bà ha .Ma ha tất đà dạ, ta bà ha . Tất đà du nghệ, Thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn già ra da, ta bà ha. Ma bà lợi thắng yết ra dạ, ta bà ha.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da, Bà lô kiết đế, thuớc bàn ra dạ, ta bà ha. Án tất điện đô, mạn đà ra, Bạt đà da, ta bà ha.


NAM MÔ LY CẤU ĐỊA BỒ TÁT MA HA TÁT (3 lần)
(Quỳ đọc bài thỉnh Phật cầu gia hộ)
Kính nghe: Mỗi Đức Phật ra đời mở tám vạn bốn nghìn cửa Pháp. Một mặt trăng cõi thiên, phá tối tăm quần sanh nơi đại địa. Mở rộng đạo mầu nhứt thừa; Sám diệt tội khiên hết thảy. Kính xin bảy Phật Thế Tôn, mười phương Từ Phụ, hiện tướng hào quang sang suốt, giám soi khẩn chơn thành. Phụng vì cầu Sám cho đệ tử tên là ... Vận sức TỪ BI ĐẠO TRÀNG THỦY SÁM. Đây là quyển thượng, duyên khởi vào đàn, hành nhơn chúng con, quỳ gối chắp tay, kính lễ mười phương Tam Bảo, quy y hết thảy Thánh Tăng, giải tỏ cầu thương, mở bày Sám hối. Trộm nghĩ: Chúng con tên là ... Nhứt tánh trái ngang chìm đắm hướng về trong bốn thú, Nhứt chơn mờ mịt loanh quanh ở mãi trong sáu đường. Nghiệp thân, miệng, ý buông lung, vì tham, sân, si phóng túng. Làm càn làm bậy tạo ra nghiệp chướng vô biên, theo ác theo tà gây lấy lỗi lầm nhiều thứ.
Nay nhờ Đức Như Lai mở bày cửa Pháp phương tiện, khiến cho lũ chúng con phát khởi tâm thành Sám hối. Mong nhờ Thánh chúng, mở đọc Sám văn, rửa sạch tội cấu nghìn đời, trừ hết oan khiên nhiều kiếp. Con nguyện được như vậy, xin Phật rủ lòng thương; Ngửa mong đức Đại Từ Bi, vì con mà ngầm giúp.
(Đại chúng ngồi tụng)


 
từ bi thủy sám pháp 6



Mục Lục:
Duyên Khởi
Phần Nghi Lễ
Từ Bi Tam Muội Thủy Sám
  • Pháp Từ Bi Thủy Sám (Quyển Thượng)
  • Pháp Từ Bi Thủy Sám (Quyển Trung)
  • Pháp Từ Bi Thủy Sám (Quyển Hạ)
Phần Hồi Hướng
Phần Chú Thích

 
thông tin cuối bài viết 2
     

 

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây