MÂY TRẮNG HỎI ĐƯỜNG QUA - HT THÍCH THÁI HÒATác Giả: Thích Thái Hoà NXB: Hồng Đức Số Trang: 272 Trang Hình Thức: Bìa Cứng Khổ: 14,5x20,5cm Năm XB: 2018 Độ Dày: 2,5cmMTHDVĂN HỌC - TRIẾT HỌC100.000đSố lượng: 1000000 Quyển
Trích “Hoa Từ Bi – Mây Trắng Hỏi Đường Qua”: Ngày chánh niệm tại Non Nước(7/05/1995). Cuộc hành trình, nếu không có bước khởi đầu, thì làm sao cóbước thứ hai, thứ ba, những bước kế tiếp và đi dẫn đến đích.Từ ngày thực tập chánh niệm tại Chánh Niệm Lâm và từChánh Niệm Lâm chúng ta có Thạch Niệm Lâm, từ ThạchNiệm Lâm chúng ta bước về Thuyền Tôn tự, Quan ÂmPhật đài, Hoài Nguyên Lâm ở Thừa Lưu, Thúy Vân LinhThái và giờ đây, Thầy trò chúng ta vượt đường xa qua đèo,qua núi để đi vào ngoại tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng nơi códanh lam thắng cảnh, non nước hữu tình ngàn năm lưudấu, đó là Ngũ Hành Sơn và chùa Linh Ứng để thực tậpngày tu học Chánh niệm.
Xe đưa đoàn tu học Chánh Niệm gồm có ba chiếc, tậptrung tại 3 địa điểm: Tây Lộc, Thành Nội và 56 Lê Lợi,đoàn xe chuyên chở khoảng 100 người khởi hành lúc 4 giờ30 phút, cùng tại tụ điểm 56 Lê Lợi.Cũng như thường lệ, tất cả học chúng về hình thức ăn mặcgọn gàng lịch sự, nét mặt trông tươi vui, phấn khởi mặc dùđêm đó không mấy ai ngủ sớm và dậy trễ đâu! Quý vịmang theo đầy đủ phẩm vật để cúng dường: hoa quả, trầmhương, dầu hỏa và không quên mang chút đặc sản của Huếlà mè xửng đặc biệt và kẹo cau. Rồi mỗi người tay xách,vai mang, có những vị hai ba xách: thức ăn, nước uống,những đồ dùng cho ngày chánh niệm. Đi xa mà mang theođồ đạc lỉnh kỉnh cũng rườm rà thật, nhưng tất cả đều muốnlàm đẹp, có ý nghĩa và trang trọng trong ngày chánh niệmcũng như trong cuộc sống vậy.Đoàn xe đưa Thầy trò chúng tôi rời Huế lúc mặt trời hừngđông và chẳng bao lâu đoàn xe đã vượt Phú Bài, Truồi,Nong..., Nước Ngọt, Thừa Lưu, Lăng Cô, và lên đến đỉnhđèo:
Đỉnh đèo cao hút gió Bờ vực thẳm vô minh Quanh co đồi núi hiểm Xa phố chợ phù vân.
Gần đến đỉnh, Thầy trò chúng tôi xuống xe và thiền hànhlên đỉnh, dừng lại 57 phút trên đèo và thong thả bách bộxuống núi, vừa đi vừa ngắm cảnh, nhìn bầu trời xanh caovời, trông xuống vực sâu thăm thẳm, cùng đoàn xe xatrông nhỏ nhoi, rì rầm, leo dốc núi, chúng ta thấy rõ sự tựtin của con ngƣời trước thiên nhiên hùng vĩ. Đoàn chúngtôi thanh thản với những bước chân nhàn du giữa đèo cao,núi biếc.Rồi đoàn xe nối đuôi nhau vượt đường trường, lẹ làng, lenlỏi lách qua những chiếc xe lớn kềnh càng chạy chậm rãi,xe lên xuống quanh co, khúc khuỷu nhưng vẫn bon bonvun vút trên đường dài thiên lý!
Mới Huế đó mà chừ Liên Chiểu, Kim Liên, Hòa Khánh vàkìa tượng đức Bổn Sư lộ thiên khổng lồ màu trắng tỏa,đường đi “Trưa Huế, xế Quảng” đã đến nơi rồi!Đoàn xe qua Hòa Mỹ, Phước Tường đến ngã Ba Huế, xerẽ phải, đi thêm mấy đoạn đƣờng vùng chợ mới và xe từ từqua cầu Delasse, cầu kiến trúc đơn giản, nhưng cứng rắnvững chắc như nói lên sức sống kiên cường đấu tranhdũng mãnh của người dân xứ Quảng.
Chúng tôi đến nơi, khoảng 9 giờ, xuống xe là chúng tôi tươicười nhìn đá, sư tử đá, đồ gia dụng bằng đá với nhiều màusắc rất đẹp, nhìn qua cũng tương tợ như hồng ngọc, bạchngọc, túy ngọc đắt giá trong các cửa hiệu kim hoàn, có cảnhững chiếc vòng cẩm thạch cũng lên nước vân xanh, vânxám nhạt! Tiểu thủ công nghệ thì rất tỉ mỉ, công phu do bàntay và trí óc của những nghệ nhân điêu khắc sáng tạo.Đường lên Non Nước đục núi mà đi, tầng cấp dốc khá cao,nhìn những bậc đá đã nói lên sự kiên trì và công phu xâydựng. Mấy vị cao niên dìu nhau đi nhưng vẫn tươi vui tiếnbước, chúng tôi nhờ Phật lực gia bị, vừa đi, vừa xách trongchánh niệm, nên cũng không thấy mệt, các em thanh thiếuniên nữ thoăn thoắt, lẹ làng lên chùa trước với những xách,giỏ nặng tay!
Kìa! Ngôi chùa thật nguy nga tráng lệ, kiến trúc hùngtráng, tân kỳ, chạm trỗ hoa văn với nhiều màu sắc rực rỡ.Chúng tôi đi thẳng vào sân chùa. Quý vị, ngƣời thì đếnngồi gần giàn hoa lan cạnh hồ nƣớc để nghỉ chân sau khilên dốc, kẻ thì lo sửa soạn lễ vật cúng dƣờng. Chúng tôiđược dạy mang hành trang cùng đoàn qua ngôi “NhàKhông”, nói theo ngôn ngữ thiền là “Phương trượng”. Ởđây một gian nhà rộng rãi, trống không thoáng mát, xinđược phép lộng ngữ ví von: “ngôi nhà của ngài Duy MaCật”. Quý vị điều hành của chùa thật chu đáo lưu tâm!Chúng tôi giải lao khoảng 15 phút và tất cả chỉnh đốn lạitư thế. Quý Thầy và quý vị tăng sinh mặc áo vàng, chúngtôi mặc áo tràng tươm tất (nếu có), nghiêm trang xếp hàngmột theo sau thầy thiền hành lên điện Phật.
Thầy làm chủ lễ, các vị tăng sinh xếp hàng đứng trước,chúng tôi xếp hàng hai bên, phía sau cùng với quý vị Phậttử địa phƣơng đến lễ bái ngày hôm nay.Thầy kính cẩn niêm hương và hành lễ. Sau nghi lễ, thầy dạy:“Thưa đại chúng, hôm nay ngày mồng 8 tháng 4 năm ẤtHợi, tức là ngày 7 tháng 5 năm 1995, tất cả chúng ta đã cócơ duyên về ngôi chùa Linh Ứng này, thuộc Thủy Sơn ởtrong Ngũ Hành Sơn để thực tập chánh niệm. Trước khi đivào chương trình tu học chánh niệm, thầy công bố nội quy:
1. Ý thức tự giác cao: tự mình làm cho mình có an lạc. 2. Tất cả phải có tinh thần đồng đạo. Mặc dù “mỗi người,mỗi nước, mỗi non, bước vào cửa Phật là con một nhà”.Cho nên phải giúp đỡ, tạo điều kiện tu tập cho nhau. 3. Phải luôn luôn yêu chuộng môi trường sống, không làmđiều gì thương tổn, ngay cả cỏ cây, hoa lá và làm thế nàođể khi ra đi còn để lại hương thơm!
Sau đó, Thầy giới thiệu về địa thế: “Theo Đại Nam nhấtthống chí, thì vị trí của Ngũ Hành Sơn: phía tây là sông cáinước luồn, phía đông của Ngũ Hành Sơn là biển cả mênhmông. Đỉnh cao nhọn và đẹp, trời tạnh nhìn xa sắc như mây gấm... tục gọi là Non Nước. Năm 1837 vua MinhMạng sắc phong các núi ở Non Nước là Ngũ Hành Sơn.Ngũ Hành Sơn bao gồm: Thủy Sơn, Hỏa Sơn, Mộc Sơn,Thổ Sơn và Kim Sơn. Chùa Linh Ứng nằm trong địa phậnThủy Sơn.Đồng thời Thầy lược giảng về nguồn gốc của chùa LinhỨng tại Thủy Sơn như sau: “Theo truyền thuyết, ngày xưanơi đây có một bậc Tiên hiền ở làng Khải Đông, đã đến tuhọc ở động Tăng Chơn, là người đầu tiên khai phá xâydựng nơi này. Rồi theo thời gian chùa thay danh đổi hiệu,đến triều Thành Thái thì từ Ứng Chơn được đổi thànhLinh Ứng. Hiện tại thượng tọa Thiện Nguyện đang trú trìngôi chùa này.
Thầy nói tiếp: “Hôm nay, chúng ta về đây tu học trongcảnh quang trang nghiêm tráng lệ này, chúng ta khôngquên công lao của Tổ Đức, cũng như sự đóng góp của baothế hệ tăng già, cư sĩ và những sự đóng góp ấy khôngnhững phản ánh văn hóa xứ Quảng mà còn là di sản vănhóa của toàn thể dân tộc Việt Nam. Đạo cũng như đời, khinhìn từng viên ngói, từng viên đá, cỏ hoa, ta sẽ cảm nhậnsâu xa, không những chúng ta phải trân trọng truyền thốngcủa Phật giáo Việt Nam nói chung mà Phật giáo QuảngNam Đà Nẵng nói riêng nữa”.Sau phần giới thiệu, chúng tôi theo gót chân thầy thiềnhành vào động Tăng Chơn để dự buổi Pháp thoại.Thật không biết làm sao để chúng tôi có thể diễn tả hếtđược cảnh kỳ bí, thiêng liêng và với cái tâm sùng kínhtrong cảnh thực hư mầu nhiệm này, chúng tôi chỉ biết lắngtâm cảm nhận...
Sau nghi thức thiền lễ, Thầy nói với hội chúng rằng: “Hômnay chúng ta có pháp thoại về Bông hoa Từ Bi” - Thế nào là Bông hoa Từ Bi? - Hoa Từ Bi là hoa có khả năng chuyển hóa từ khổ đau đếnan lạc, từ trói buộc sang tự tại, từ mù quáng đến trí tuệ, từthù hận đến thương yêu và từ hệ lụy đến giải thoát.Đó là bông hoa có khả năng chuyển hóa để hướng thượng!
Hoa Từ Bi là đóa hoa mang chất liệu giải thoát, chất liệuhạnh phúc, tươi mát.Và khi đã có hoa Từ Bi thì cũng có hoa không Từ Bi.Hoa không Từ Bi là loại hoa làm nên bởi những chất liệuganh tỵ, tham lam, giận hờn, mù quáng, khinh mạn, do dự,nhận thức sai lầm bản thân, nhận thức một chiều, hiểu biếtmột góc cạnh. Hoa không Từ Bi là hoa cố chấp quan điểmsẵn có của mình, hoa tạo nên bởi chất liệu giáo điều, nhậnthức sai lầm, không thấy rõ nhân duyên, nhân quả, chấpcó, chấp thường, chấp không, chấp đoạn.Bông hoa không Từ Bi hiện hữu giữa đời không có hươngthơm, làm cho những người có duyên tiếp xúc với nó sẽtrở nên úa tàn, khô chết!Trái lại Hoa Từ Bi được tạo nên bởi những chất liệu sau:
1. Tình yêu: Tình yêu không vị ngã, không mang chất liệungã tính. 2. Tự kiểm soát lấy chính mình: Có khả năng kiểm soáttâm của mình để cho tâm không khởi lên vọng tưởng, điênđảo. Thân và ngữ cũng vậy, không nói những lời nói vôích, không hành động những hành động điên đảo, vọngtưởng và từ sự kiểm soát đó mà trong đời sống bông hoaTừ Bi phát sinh chất liệu an lạc, tự do, tự tại. 3. Kiên trì và chịu đựng: Bông hoa Từ Bi có khả năngchịu đựng những trở ngại để rèn luyện chất liệu giải thoát.Vì vậy mà ngay trong lò lửa hoa vẫn nở tươi và vẫn tỏahương thơm. 4. Không biến chất, không giải đãi, không biếng nhácmà tích cực, nhiệt tình: Hoa Từ Bi là bông hoa có khảnăng biểu hiện tự tính vô ngã một cách tự nhiên, không baogiờ bị biến chất bởi thời đại; không lúc nào và không ở đâumà không biểu hiện cái đẹp một cách tự nhiên của mình. 5. Bình tĩnh và thanh thản trước mọi vấn đề xảy ra vớichính nó: Có bình tĩnh, nên hoa Từ Bi không bị thác loạn,manh động, điên đảo, vọng tưởng đối với mọi hoàn cảnh.Nhờ có chất liệu thanh thản, nên hoa Từ Bi thanh thảnngay ở nơi bận rộn. 6. Sự sáng suốt: Nhờ có chất liệu sáng suốt, nên hoa TừBi có khả năng soi chiếu để thấy rõ sự thật của vạn vật. 7. Biết thích ứng: Hoa Từ Bi biết thích ứng với mọi hoàncảnh, mọi căn cơ, thời đại để chuyển hóa từ thấp lên cao,từ phàm phu lên Thánh. 8. Thệ nguyện: Không có hoa Từ Bi nào mà không phátkhởi thệ nguyện. Đó là thệ nguyện thành Phật, thệ nguyệnđộ chúng sanh. 9. Năng lực tự tại: Loại hoa bình thường hay bị trói buộcbởi điều kiện, còn hoa Từ Bi không bị trói buộc bởi nhữnggì tạo ra nó. 10. Trí tuệ: Chất liệu thông minh tạo nên bông hoa Từ Bi.Trong mười chất liệu tạo nên hoa Từ Bi, có hai chất liệunổi bật đó là chất liệu tình yêu và trí tuệ.
- Bằng chất liệu tình yêu, hoa Từ Bi hiện hữu mênh mông,bao la, không hạn chế bởi không gian và thời gian. Hoa TừBi hiện hữu bằng trái tim toàn vẹn và tinh khôi của mình. - Bằng chất liệu trí tuệ, hoa Từ Bi thấy rõ bản chất của mọisự vật mà không bị hình tướng bất thực của mọi sự vậtđánh lừa. Hoa Từ Bi hiện hữu ở đâu cũng là hiện hữu củatình và lý. Trong tình có lý và trong lý có tình. Nếu chỉhiện hữu một chiều thì rơi vào cực đoan.Hoa Từ Bi làm chỗ nương tựa cho hết thảy chúng sanh vàai có duyên tiếp xúc với những bông hoa đó, thì sẽ có hạnhphúc không những ngày mai mà chính ngay đây và bây giờ.
Trong kinh Pháp Hoa có ghi rằng, lúc Phật Thích Ca MâuNi nói kinh Đại thừa tên Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ TátPháp Phật Sở Hộ Niệm, Ngài nói Kinh đó xong, liền ởtrong đại chúng ngồi xếp bàng, nhập vào chánh định Vôlượng nghĩa xứ, thân và tâm chẳng động. Khi ấy trời mưahoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha Mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa,hoa Ma-ha Mạn-thù-sa từ trên hư không rãi xuống cúngdường đức Phật và hàng đại chúng.Hoa Mạn-đà-la là hoa sen trắng tinh. Hoa Ma-ha Mạn-đà-la là hoa sen trắng tinh vĩ đại trùm khắp mười phương.
Hoa Mạn-thù-sa loại hoa sen đỏ cánh rất mịn. Hoa Ma-haMạn-thù-sa là hoa sen đỏ vĩ đại, hương thơm mênh mông,rộng lớn cùng khắp. Và đó là biểu tượng cho bốn hàng Bồtát: Thập trú, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, đanghành đạo khắp mười phương thế giới đều trở về núi LinhThứu, dự phần vào Pháp hội Nhất thừa.Hoa Mạn-đà-la là biểu tượng cho hàng Bồ tát đã khơi mởđược tri kiến giác ngộ.
Hoa Ma-ha Mạn-đà-la là biểu tượng cho hàng Bồ tát đãhiển thị được Phật tánh, tuệ giác ở ngay nơi chính mình.Hoa Mạn-thù-sa là biểu tượng cho hàng Bồ tát đã chứngngộ Phật tánh, chứng ngộ tuệ giác ngay ở nơi chính mìnhvà luôn luôn có tâm hạnh mong cầu cho hết thảy chúngsanh đều chứng ngộ tuệ giác, chứng ngộ Phật tánh.Hoa Ma-ha Mạn-thù-sa là biểu tượng cho hàng Bồ tát sắpsửa chứng nhập trọn vẹn tuệ giác và sắp sửa sống trọn vẹnvới tuệ giác đó.
Hoa Từ bi là bông hoa tạo nên từ sự tu tập và đó là sự tutập từ bi và trí tuệ. Sự tu tập ấy có hương thơm theo chiềugió và ngược chiều gió, có hương thơm bay khắp bốnphương, bay khắp mọi thời gian và mọi không gian. Chonên, chúng ta tu tập nguyện không làm loài hoa thườngtình sinh diệt mà chúng ta nguyện làm hoa Từ Bi.Ta nguyện sống một ngày trong chánh niệm, kiểm soát lạitâm hồn, lời nói, cách sống để xem chúng ta có bao nhiêuchất liệu của hoa Từ Bi, nếu đã có thì chúng ta giữ gìn,nuôi dưỡng, làm tăng trưởng thêm lên và chúng ta soát xétlại chúng ta có những gì không phải là bông hoa Từ Bi, thìchúng ta sẽ gạn lọc, lựa chọn, để chuyển hóa thành chấtliệu của bông hoa Từ Bi và làm cho hương thơm tỏa baykhắp mười phương”.
Sau bài Pháp thoại Thầy dạy: Mỗi một thiền sinh tự chọnchỗ ngồi để thực tập chánh niệm. Chúng tôi thực tập thiềntọa một góc động chênh chênh dưới chân Phật, tại độngTăng Chơn. Chúng tôi nhìn lên và chiêm ngưỡng Ngài vàcảm nhận sự từ bi vô hạn, sự tự tại vô cùng với nụ cườibao dung, thanh thản. Rồi chúng tôi soát xét lại tâm tư như những lời Thầy chỉ dạy trong bài pháp thoại. Và trongniềm Pháp lạc, chúng tôi bộc khởi mãnh liệt những chấtliệu của bông hoa cao quý, và giây phút này tự gạn lọc,đào thải những chất liệu của loài hoa luân lưu sinh diệt.
Bài Pháp thoại với chúng tôi là sự chuyển hóa mầu nhiệm,là sức sống trao truyền và là mục đích tu tập trong cuộcđời chúng tôi. Đó là bản chất của Đạo, của giác ngộ, giảithoát ngay đây, bây giờ và sẽ mãi mãi mai sau. Chúng tôinhư được bảo bọc bởi suối nguồn tươi mát cho đến khinghe tiếng lắc linh báo hiệu xả thiền.Chúng tôi chánh niệm đứng dậy, đến ngay tượng Phật vàđảnh lễ Tam Bảo ba lạy, tưởng niệm đến các bậc phạmhạnh, Tổ đức đã dày công tạo dựng nơi đây và biết đâu vớibản nguyện, các Ngài vẫn còn tiếp tục có mặt nơi đây!Đồng thời, chúng tôi chí thành tri ân những bậc đã traotruyền Giáo pháp, khai mở cách nhìn, cách suy tư, cáchsống cho chúng tôi. Và rồi chúng tôi thiền hành lên hanggió, đường tuy dốc đứng, chúng tôi gặp những tượng Phật,vị thì thiền tọa ở hang động này, vị thì tự tại ở góc độngkia, chính nhờ thế mà chúng tôi thư thái leo lên gầnkhoảng không, có vòm trời xanh, có thể nhìn thấy mây bayvề nơi không trú ngụ. Sau đó đoàn chúng tôi tuần tự thiềnhành trở lại phương trượng.
Bữa ăn trưa bắt đầu đúng 12 giờ, những khoanh cơm bớitrắng tinh, xôi đậu xanh mềm dẻo, bánh mì... các món ăncao cấp như: canh kim châm nấu nấm tươi và đậu ngự, mìcăng xào chua ngọt với thơm và nấm, măng non khokhuôn đậu, mướp đắng kho rim, bắp giả ram dòn, muối sảđậu phụng đậm đà, tương chao xì dầu cay cay mặnmiệng... đó những hương vị hấp dẫn của thiền môn, vàcũng không quên món ăn tươi mát là xà lách dắp cá, dưagang trộn gỏi. Ở đây, cũng không thiếu các thứ bánh lọcbọc cà rốt nấm mèo, bánh chưng Nhật Lệ, bánh ngọtTrung Quốc, thật trăm hoa đua nở, mỗi người mỗi tay nữcông gia chánh đã tạo nên một thực đơn dồi dào hấp dẫncủa bữa ăn “thiền duyệt thực” để tiếp sức cho phần thamquan leo nhiều dốc núi và thiền đàm tại đèo Hải Vân.
Trong khi ăn, mọi người đã ăn trong không khí tươi vui,thong thả tự nhiên và đạo vị. Tội nghiệp, có mấy em thuộcđịa điểm Tây Lộc đi trễ xe, phải về trạm An Cựu mua vévà tiếp tục cuộc hành trình, nên chi các em ăn trễ, tuy thếthức ăn cho các em cũng đầy đủ.Sau bữa ăn, mấy chị em chúng tôi cùng nhau xếp dọn đồđạc, gom góp gọn gàng, quét sạch trong ngoài và cùng cácem Phật tử tại chùa giải quyết những đống lá bánh, bao, bì,vỏ cam, vỏ quýt... và hoàn trả những đồ dùng của chùa,các em rất nhiệt tình hoan hỷ, chúng tôi không quên ngỏlời cảm ơn!... Sau đó chúng tôi tuần tự đi tham quan. Vìthời gian có hạn, nên chúng tôi không ngắm kỹ, chỉ lướtqua hồ, cá đỏ bơi lội tung tăng, cá ở đây cũng rất hạnhphúc! Chúng tôi leo lên nhiều bậc thang đá, hoa Sứ nở rộtỏa mùi thơm dễ chịu, tôi tưởng chừng như đâu đây hươnghoa tỏa xuống tự mây trời! Đến đâu chúng tôi cũng chiêmngưỡng tượng Phật. Với sự mầu nhiệm của tạo hóa, phốihợp với trí óc siêu phàm đạo vị của con người đã tạo nênnhững thắng tích kỳ bí. Tôi quanh quẩn ở tượng Phật BổnSư ngoài trời, đang được quý Phật tử chuẩn bị thiết lập lễđài cho ngày Phật đản sắp tới, tâm tư tôi xin được phépdùng lời thơ của một thiền sưđể ca ngợi:
Đường xưa còn một lối Ngôn ngữ vượt qua rồi Ôi, đất trời mầu nhiệm Còn chăng một nụ cười!
Dù thời gian hạn định, chúng tôi cũng đã đi các động xahơn, huyền bí và thần thoại như động Huyền không, LinhNham, và Hoa Nghiêm ...Vào 1 giờ 45 phút, đoàn chúng tôi được Thầy chỉ thịchuẩn bị rời Non Nước. Sau khi Thầy từ giã quý vị điềuhành ở chùa, chúng tôi với hành trang gọn nhẹ trên vai,trang nghiêm vái lạy giữa đất trời và cùng nhau thong thảxuống núi trầm lắng và trật tự như khi lên Non vậy.Hai bên đường dốc đá, khách thập phương và du kháchnước ngoài với nhiều màu sắc, nét mặt tươi cười, có lẽ tấtcả đều hân hoan ngưỡng mộ, mặc dù đường dốc và nắng.Chúng tôi có thỉnh một tượng Phật lưu niệm, du khách vàbạn bè chúng tôi đã làm hạnh bố thí, san sẻ với những kẻbất hạnh niềm vui nho nhỏ nói lên sự ưu ái của tình người!Hai giờ, đoàn xe rời Non Nước, xe chạy đến đường Bà mẹAnh hùng và chúng tôi vẫy tay chào tạm biệt vùng QuảngNam Đà Nẵng.
Đến Hòa Khánh khoảng 2 giờ 30 phút, Thầy trò chúng tôighé lại chùa Quang Minh. Đoàn chúng tôi lên điện Phật,chiêm ngưỡng, lễ bái, cúng dường phước sương và xuốngsân chùa ngắm hoa. Ở đây, có giàn hoa leo màu xanh ngátdịu dàng, nhu nhuyễn và có một loại hoa rất lạ đối với tôi,thân và lá màu túy lục, hoa trắng ngà tinh khiết e ấp nụhoa, có lẽ thuộc dòng họ hoa lan. Hỏi ra, tên hoa là QuanÂm. Bông hoa thì xa lạ, nhưng tên hoa thân thương khôngbiết tự bao giờ!
Đến chùa nào cũng để lại trong tâm tư chúng tôi nhữngniềm vui nhẹ nhàng, thanh thản. Và hôm nay, đặc biệt quýsư bà, sư cô ở đây đã ưu ái đến thầy trò chúng tôi và saucùng, thầy trò chúng tôi đã mang tặng phẩm theo xe vềHuế. Đoàn chúng tôi rất cảm động và nhủ thầm khi nàohội đủ nhân duyên sẽ trở lại.Và đây là chuyến về đặc biệt, thầy trò chúng tôi mang quàđường xa về cho quý vị ở Huế thọ dụng, có thể là hôm naycó các em Phật tử làm lồng đèn Phật đản, có thể là cácchú, các điệu... dùng. Chắc là khi ăn, ai cũng tươi cườicảm động trước sự ân cần “của chẳng bao nhiêu đồng màcông khó quý sư cô mấy lượng!”
Ba giờ, thầy trò chúng tôi kiếu từ. Xe chuyển bánh trực chỉHải Vân lâm.Chẳng mấy chốc, đoàn xe đã lên đèo và dừng lại sát đồithông, đoàn thực tập thiền đàm tại đây.Sau nghi thức thiền đàm, thầy dạy: “Khi những thiền sinhtrả lời công án, thì các thiền sinh khác lắng nghe và tập giữtâm bình thản, vô phân biệt, không thiên kiến, mọi ngườitự do phát biểu theo ý của mình trong thiền vị, và buổithiền đàm bắt đầu bằng công án: “Trong cuộc sống củabạn, cái gì làm chủ?”.
Trước tiên là một thiền sinh nữ đáp án: “Theo kinh Pháp Cúlà do “Tâm làm chủ”, tâm tạo tác, nếu với tâm nhiễm ô, nóilên hay hành động, khổ não bước theo sau, như bánh xe lăntheo chân vật kéo!” và tuần tự các thiền sinh khác cũng phátbiểu tương tự, hàm ý cũng không ra ngoài “Tâm làm chủ”.Chúng tôi suy tư về bức tranh “Thập mục ngưu đồ”,thường treo trong nhà thiền và rồi cũng chập chững bắtchước, tập trả lời theo ngôn ngữ ngắn gọn.Cũng có nam thiền sinh trả lời rằng, bằng những động tácnói lên sự suy tư của tâm, chúng tôi không ghi lại sự suyluận vì mấy ai đoán được tâm ai, ví phỏng cuộc đời này cómấy ai là Bá Nha và Chung Tử Kỳ?! Nếu không khéo,mình đem cái tâm chúng sanh của mình mà suy diễn là vôtình đặt vào cái tâm siêu phàm bạt tục của kẻ khác, thì sẽrơi vào quan điểm vọng tưởng.
Và sau đó, có một vị tăng sinh trả lời tương tự như sựphát biểu của một thiền sinh lão thành đã thọ Bồ tát Giới.Theo đáp án của vị tăng sinh, thì: Chánh niệm tĩnh thứclàm chủ trong đời sống của chúng ta”. Quả thật, như tấmgương phản chiếu, người chân chánh, hiền hòa, thì chỉsuy tư điều chánh và tĩnh thức chánh niệm làm chủ. Cònvới cái tâm chúng sanh chay của chúng tôi đây chưathuần thục, khi thì thiện, lúc thì ác, khi thì phàm, lúc thìthánh sai khiến, điều hành, cho nên, còn đứng xa ngoàingõ thiền môn! Âu đó cũng là Pháp nhĩ như thị! Vậy,chúng tôi cần phải có sự suy tư, phải cố gắng tu tập mỗingày, mỗi chuyển hóa để có đôi chút chất liệu của bônghoa Từ Bi.
Hội chúng đã thiền ca và thiền đàm trong niềm vui an tịnhgiữa đồi thông xanh mát và gió biển rì rào...Im lặng trong giây lát và Thầy hỏi nhỏ: Mấy giờ ...?Bây giờ, Thầy bắt đầu đứng dậy, chắp tay ngang ngực.Chúng tôi chỉnh đốn tư thế ngồi cùng chắp tay ngang ngực,lắng nhìn từng bước chân đi... Thầy đi từng bước thiền hànhqua mặt tất cả học chúng, gót chân là tụ điểm của bàn chân.Thầy đi tiếp đến chỗ đặt bình hoa, nhẹ nhàng bưng bình hoalên ngang ngực, nét mặt hiền hòa nhìn rõ bông hoa và xoaychiều hoa vào trước ngực, rồi đi về chỗ ngồi. Thầy khoanthai đặt bình hoa trước mặt, nhìn tất cả hội chúng và nói vớiâm thanh rõ ràng, trong sáng: “Tâm thiện là chủ của cõiThánh. Tâm ác là chủ của cõi chúng sanh. Thiện và ác làhai mặt của Tâm. Nhưng tâm không có hình tướng, khôngcó màu sắc, thì chúng ta diễn đạt về tâm chẳng qua chỉ làngôn ngữ giả định mà thôi. Tâm phải là tâm kia mà, chứđâu phải là ngôn ngữ!
Bạn cứ bước đi, những bước chân có ý thức chánh niệm,thảnh thơi, đi, đứng, nằm, ngồi trong chánh niệm tự giác,thì bạn là chủ của bạn, nếu bạn sống vội vã, bồn chồn, thìbạn đã bán đứng bạn cho chúng sanh, cho vọng tưởng.Nếu đi, đứng, nằm, ngồi, nói năng trong chánh niệm, thìbạn sẽ có hạnh phúc.Tâm là một dòng sông chảy liên lỉ. Tâm phải là ông chủkia mà! Chứ không phải ông chủ mang ý nghĩa ông chủ ước lệ! Theo kinh Hoa Nghiêm, tất cả đều tác động bởitâm, nên khổ đau hay an lạc đều do tâm tác động. Giờ đây,chúng ta ngồi giữa núi rừng và cảm nhận sự an lạc, trongkhi bao nhiêu người cũng ở giữa núi rừng mà nào có thấyan lạc gì đâu? Cho nên, an lạc là phải sống thực để thấy rõtừ nơi tâm, chứ không phải do cảnh. Vậy tâm làm chủ, tâmtạo tác, tâm dẫn đến hành động”.
Thầy cũng đã ngỏ lời nhắc nhủ: “Quí vị đã đáp án mỗingười mỗi vẻ, phản ảnh tự tâm của mình, tuy nhiên khôngnên tự cho mình đúng hoặc nghĩ rằng mình sai mà chỉ nênsuy tư trong chánh niệm”.Thầy dứt lời, tất cả hội chúng đều đứng dậy, chắp tayngang ngực, Thầy nói tiếp: “Giờ đây chúng ta thành kínhtưởng niệm và vô cùng biết ơn đối với Tam Bảo, các vịSơn thần, Thổ thần, Long thần, Lâm thần... các vị hiện cómặt hoặc ẩn khuất, xin quý vị hãy ghi nhận tấm lòng tri ânsâu sắc của Thầy trò chúng tôi trong buổi tụ tập này, nếucó điều thiện nào, thì xin hồi hướng đến quý vị để ông chủác trở về với ông chủ thiện và nếu có điều gì không vui,xin quý vị vui lòng chuyển hóa để trở thành bông hoa TừBi bất tử “.Hội chúng cùng Thầy tụng bài hồi hướng:
Nguyện đem công đức này Hướng về khắp tất cả Đệ tử và chúng sanh Đều trọn thành Phật đạo.
Âm thanh của lời kinh hồi hướng tỏa rộng đến vô cùng!Trời đã về chiều, chúng tôi tuần tự xuống đồi thông vàđoàn xe chuyển bánh, ngoài khơi biển xanh mênh môngsóng lặng hiền hòa!Xe đến ngang đèo, mây bay lờ lững quyện cùng với núiđá, chúng tôi bỗng cảm nhận:Sương khói chiều nay trên đỉnh đèo, đường về theo nhịpbước chân ai, in trên núi biếc gầy thân hạc ... và những vầnthơ trong tập “Sương đọng ven trời”:
“...Đi không lưu một dấu hài Ngày về cũng vượt ra ngoài có không...”
Phải chăng, những bước chân “từ thiên hà xa xôi trở vềtrái đất” hay những bước chân chừ đi trong cõi phù trầnđều đến như mây bay và đi như gió thoảng, mà đường mâythì mênh mông không lộ và gió kia đang trú ngụ nơi nào,tùy duyên mà tụ tán, tùy duyên mà đem sự tươi mát, an lạcđến, đi giữa dòng đời với tâm vô điểm trú.Xe về đến Huế, thành phố đã lên đèn. Đường tuy xa mà tấtcả hầu như không thấy mệt, thật an toàn, hạnh phúc.Chúng tôi nhìn hai vị quay phim và nhiếp ảnh như hứa hẹnngày Phật đản, lúc 3 giờ tại chùa Phước Duyên (như lờiThầy dặn) để được xem những hình ảnh ghi lại đẹp và đầyđủ ý nghĩa về ngày thực tập chánh niệm.
Đoàn xe và tất cả học chúng đã về đầy đủ tại tụ điểm 56Lê Lợi, trước khi trả học chúng về các địa điểm Tây Lộc -Thành Nội. Chúng tôi chia tay nhau bằng nụ cười tươi vuithân quí và trong tự tâm tôi khởi niệm danh hiệu đức Bồtát Quán Thế Âm.Chúng tôi thiết nghĩ, máy quay phim và máy ảnh cũng như tâm quí vị là những phóng viên bén nhạy linh động và kinhnghiệm, chắc chắn ghi nhận chính xác và đầy đủ nhiều.Riêng chúng tôi, cũng xin được góp nhặt ghi lại một cáchtương đối và còn nhiều khiếm khuyết để được cùng quí vịnói lên cuộc hành trình tu tập chánh niệm đường xa, mongsao quí vị ở nhà có thể hình dung cảm nhận đôi nét sinhhoạt trong ngày tu học mồng 8 tháng 4 năm Ất Hợi(1995), tại Non Nước, Đà Nẵng.
Quả thật “đường đi không khó vì ngăn sông cách núi màkhó lòng người ngại núi e sông”, và một khi với nhữngtâm hồn hiền thiện làm chủ, trong sự quyết tâm tu học như ngày hôm nay, thì cho dù “Mấy sông cũng lội, mấy đèocũng qua!” Huống chi, chừ đây đã rõ kiếp người trongtừng hơi thở mong manh và nhìn lại thân tâm, nào ta đã cóchút gì đâu gọi là hành trang mang theo trong cuộc hànhtrình dài đăng đẳng, để mong có cơ duyên thoát ly sinh tửluân hồi. Học trò Nhuận Thiều Nguyên kính ghi
MỤC LỤC HOA TỪ BI.........................................................................................................................3 VU LAN..............................................................................................................................29 BỐN PHÉP LẠ CỦA Ý..........................................................................................................60 LÀM THẾ NÀO ĐỂ TRỞ THÀNH NGƯỜI HỌC TRÒ THÔNGMINH VÀ HỌCGIỎI................70 HẠNH LẮNG NGHE............................................................................................................74 NHỮNG ĐÓA HOA TUYỆT VỜI..........................................................................................80 NGƯỜI VỀ TỪ ĐỈNH NÚI...................................................................................................86 KHÉO SỬ DỤNG PHƯƠNG TIỆN........................................................................................98 NIỀM TIN VÀ TRÍ TUỆ........................................................................................................144 KHÁI QUÁT LỊCH SỬ PHẬT GIÁO VIỆT NAM VÀ HUẾ.........................................................169 BẦU TRỜI VẪN XANH TRONG ...........................................................................................214 PHẬT GIÁO HUẾ VÀ AM TRANH GIỮA LƯNG ĐỒI.............................................................245 GẬY THIỀN DỰNG NƯỚC NON.........................................................................................265