094.278.3333 - 0888.959.000

187 Bà Triệu - quận Hai Bà Trưng - Hà Nội

LƯỢC GIẢI DANH NGHĨA LUẬT TỨ PHẦN - THÍCH NGUYÊN CHƠN LƯỢC GIẢI DANH NGHĨA LUẬT TỨ PHẦN - THÍCH NGUYÊN CHƠN Nguyên tác Hán Văn: Hoằng Tán Tại Tham
Chủ biên bản Việt: Thích Nguyên Chơn 
Nhà Xuất Bản: Hồng Đức
Số Trang: 912 Trang
Hình Thức: Bìa Cứng
Khổ Sách: 16x24cm
Năm Xuất Bản: 2016
Độ Dày: 5cm
S001579 SÁCH VỀ LUẬT 450.000 đ Số lượng: 1000 Quyển
  • LƯỢC GIẢI DANH NGHĨA LUẬT TỨ PHẦN - THÍCH NGUYÊN CHƠN

  •  1170 Lượt xem
  • Mã sản phẩm: S001579
  • Giá bán: 450.000 đ

  • Nguyên tác Hán Văn: Hoằng Tán Tại Tham
    Chủ biên bản Việt: Thích Nguyên Chơn 
    Nhà Xuất Bản: Hồng Đức
    Số Trang: 912 Trang
    Hình Thức: Bìa Cứng
    Khổ Sách: 16x24cm
    Năm Xuất Bản: 2016
    Độ Dày: 5cm


Số lượng
TỰA

Lời dạy của Luật là thuyền báu của ba thừa, là thềm mây của tám thánh. Các Đức Phật từ đây mà đạt đến bồ-đề, các thánh nhân do đây mà chứng niết-bàn. Giới luật như minh châu, như tuyết trắng, ngoại chúng không được dự phần, nội đồ thì bí mật truyền trao. Tam bảo nhờ đây mà sáng tỏ, năm chúng nhân đó mà an lập. Như vậy Luật này há không quan trọng sao? Luật tạng này, ngày xưa, nơi Kim hà Như Lai lại thêm một lần dạy dỗ, sau đó Ưu-ba-li nối tiếp trùng tuyên. Thánh nhân tại Tây Vức, thầy trò kính vâng; phân bố truyền trị có hơn nghìn năm thì truyền sang đất Hán. Cho nên đời Hán-Ngụy mới nghe nói đến Luật tạng, sang đời Tề-Lương thì dần dần hoàn bị, đến Tùy-Đường thì hưng thịnh. Từ đời Tống đến nay, người người lấy Luật học làm đầu, thì đều vượt ra ba cõi; chư tăng tuân theo phép tắc mà đồng sang đến bờ kia. Nhưng thời gian gần đây, những chủ trương sai lầm đắp đổi nhau dấy khởi, Thiền-Luật tranh cạnh nhau phân chia. Kiến giải đã bất đồng, thì việc truyền trao chẳng thể không có sai lạc.

 
luoc giai danh nghia luat tu phan1

Từ đó dẫn đến hàng hậu học không có cửa để vào, và người mới bước vào đạo cũng mê lầm thứ lớp. Cho nên đối với Luật tạng, khi giở ra đọc thì không biết danh từ, xem văn thì không hiểu được nghĩa lí. Hoằng Tán tôi khi mới bước lên đàn, đối với luật, mờ mịt giống như vào hang tối. Do đây mới nỗ lực nghiên cứu ba tạng, xem đọc sớ văn, kê cứu văn Phạn của Tây Thiên, giải thích theo âm nghĩa Đông Hạ, chọn lấy tất cả văn cú khó hiểu của luật Đàm-vô-đức, trước hết nêu danh, kế đến giải thích nghĩa. Lại phụ trích chọn lấy lời của các nhà, chính yếu thuật lại huyền nghĩa trong kinh luận. Tuy dẫn dụng văn của bốn bộ, nhưng không xen vào tông chỉ của bốn bộ ấy, vì sợ làm rối rắm việc trì-phạm, lại khó phòng hộ. Những lời thuật trong tác phẩm đều là những hành sự thông thường và sơ lược chỉ bày việc khai-già, ngõ hầu giúp người học biết trì-phạm có đồng có biệt. Chứ chẳng phải lấy điều khinh thay vào thiên trọng, bỏ tội lớn mà thay vào lỗi nhỏ. Bởi ý Phật không cho phép, ý luật lại hoàn toàn ngăn, nếu tâm trộm chưa dừng, thì khó nói đến tín và giới. Vì thế chỉ y cứ vào một bộ Tứ phần rồi tùy việc mà nêu ra để giải thích, chứ không xen vào các tông khác. Điều đó khiến cho người mới học xem đọc không bị ngăn ngại; người ôn tập không cần nhìn bản khác, hầu không dẫn đến mê văn, sai lạc yếu chỉ, tâm ý chẳng tùy thuận; để rồi đặt Luật quyển lên gác cao, suốt đời không quan tâm đến, khiến Luật học từ đây gián đoạn, Tam bảo từ đó dần suy. Chỉ nghĩ đến điều này, tôi mới dám dùng những thấy nghe hạn hẹp của mình, biên tập gom chép thành bộ loại, giải thích tất cả sự tướng, lược trình bày những ý nghĩa quan yếu. Nếu nói về khai-già-trì-phạm thì Quảng luật đã nêu đủ; tính-chế khinh-trọng thì xem văn luật liền biết, đối trị phiền não thì cần phải nghiên cứu sâu xa. Những việc ấy thì tác phẩm này không trình bày đến. Huống gì Tán tôi hiểu biết cạn cợt, đâu có thể biết tận cùng Luật tạng, chỉ đợi người học bổ sung, khiến giới quang tự sáng. Đến như tất cả những chi tiết qui tắc sâu mầu thì trong Luật sớ đã trình bày đầy đủ. Điều này đã nêu trước rồi, nên sau không phải nói lại; vì ý sở cũng dễ hiểu, lí cũng xuyên suốt, pho bộ nay cũng đã hoàn thành. Chỉ thẹn mình tài kém, khó tránh sai lầm thêm nước vào sữa, đồng thời chỗ quyết nghi chưa đầy đủ, tất cả những điều đó hi vọng người tài giỏi đời sau cùng soi tỏ; hầu chiếu giới châu trong đêm tối, rạng tuệ nhật trên bầu trời cao, chính pháp được vậy mà trường tồn, thềm thánh kiên cố mà vĩnh cửu. Đó là điều mà Tán tôi vui mừng trông mong, kính xin bậc trí soi xét!
----------

Một ngày mùa hạ, năm Canh Ngọ, niên hiệu Sùng Trinh nhà Minh,
Đại Bồ-đề tâm sa-môn Hoằng Tán tựa.


LƯỢC BÀN VỀ VIỆC PHÂN BỘ

Sau khi Thế Tôn thị tịch tại Sa-la, tôn giả Ưu-ba-li kế tiếp đích thân tụng lại tám mươi lần lời Như Lai, nên gọi là Bát thập tụng luật. Đầu tiên Ẩm Quang cung kính thụ trì luật này, thứ hai là A-nan, vị thứ ba là Mạt-điền-địa, vị thứ tư là Xá-na-đề-bà, vị thứ năm là Ưu-ba-quật-đa. Năm vị này thể hội quyền giáo, thông đạt đại đạo, nối tiếp truyền trì Luật tạng, trải qua hơn một trăm mười năm truyền trao không thay đổi. Về sau, có vua A-dục xuất hiện, ông sùng kính Tam bảo, tập hợp chúng tăng kết tập ba tạng. Bấy giờ các tì-kheo chấp chỗ thấy nghe của mình, sao chép, diễn giảng kinh luật, mỗi nhóm dẫn chúng lời của thầy mình để soạn thành những bản giải thích. Do chấp trước bất đồng nên tạo thành hai bộ, phản bác đúng sai lẫn nhau, nên thỉnh vua A-dục phán quyết. Vua cho làm thẻ trắng và thẻ đen biểu thị cho hai phái Tân và Cựu để đại chúng chọn. Bấy giờ người chọn thẻ Cựu nhiều hơn, nên bộ này lấy tên là Ma-ha Tăng-kì, tức Đại Chúng bộ. Người chọn thẻ Tân ít hơn, lại đều là bậc thượng tọa, nên lấy tên là Tha-tì-la, tức Thượng Tọa bộ. Từ hai bộ này, trong thời gian hai trăm năm lại phân chia thành mười tám bộ. Trong mười tám bộ đó, có năm bộ là cương lĩnh. Cho nên kinh-luật-luận ngày nay cũng chia thành năm bộ phái: - Một, Đàm-vô-đức: Còn gọi là Đàm-ma-cúc-đa, Hán dịch Pháp Cảnh, Pháp Tạng, Pháp Mật. Kinh Đại tập ghi: “Sau khi Ta niết-bàn, những đệ tử của Ta thụ trì mười hai thể loại kinh của Như Lai, biên chép, đọc tụng, giải nghĩa tuyên thuyết lộn lạo, nên ẩn mất pháp tạng. Ấn mất tức là mật. Người lập tên là Đàm vô-đức, pháp được y cứ là luật Tứ phần”. - Hai, Tát-bà-đa: Tăng-kì luật kí ghi: “Tát-bà-đa, Hán dịch là Thuyết Nhất Thiết Hữu. Vì tông nghĩa của các bộ khác mỗi mỗi sai biệt, trong đó Tát-bà-đa chấp trung ấm quá khứ, hiện tại và vị lai mỗi mỗi đều có tự tính, nên gọi là nhất thiết hữu”. Kinh Đại tập ghi:

 
luoc giai danh nghia luat tu phan3

“Sau khi Ta niết-bàn, những đệ tử của Ta thụ trì mười hai thể loại kinh của Như Lai, biên chép, đọc tụng, lại còn đọc tụng biên chép kinh sách ngoại đạo, nói thụ có ba đời và trong ngoài, phá dẹp ngoại đạo, giỏi luận nghị, nói tất cả tính đều được thụ giới. Hễ có người gạn hỏi đều có thể trả lời. Vì thế gọi là Tát-bà- đa, pháp y cứ là luật Thập tụng”. Xuất Tam tạng kí tập ghi: “Ngày xưa Đại Ca-diếp thụ trì đầy đủ Pháp tạng dần dần truyền đến vị thứ năm là Ưu-ba-khuất-đa, vốn đầy đủ tám mươi tụng. Vì cho rằng người đời sau căn cơ chậm chạp, không thể thụ trì đầy đủ, nên Ưu-ba-khuất-đa san lược còn mười tụng. Lấy tụng làm tên gọi, vì đã là pháp thì cần phải tụng trì. Nói ‘Tông nghĩa của các bộ khác mỗi mỗi sai biệt’, nghĩa là Tát-bà-đa chấp ba đời đều có, tức đã có, đang có và sẽ có. Sẽ có tức là vị lai. Đàm-vô-đức chấp quá khứ và vị lai là không, chỉ hiện tại là có...”. - Ba, Ca-diệp-di: Ca-diệp-di, Hán dịch là Trùng Không Quán. Kinh Đại tập ghi: “Sau khi Ta niết-bàn, những đệ tử của Ta thụ trì mười hai thể loại kinh của Như Lai, biên chép, đọc tụng, nói không có ngã và thụ giả, chuyển các phiền não giống như tử thi, cho nên gọi là Ca-diệp-di, pháp tên là Giải thoát”. Chỉ có kinh Giải thoát giới bản đến nước này, tương đồng với Ngũ phần. Hoặc cho rằng bản Phạn đã truyền sang, nhưng chưa được phiên dịch. - Bốn, Sa-di-tắc: Sa-di-tắc, Hán dịch là Bất trước hữu vô quán. Kinh Đại tập ghi: “Sau khi Ta niết-bàn, những đệ tử của Ta thụ trì mười hai thể loại kinh của Như Lai, biên chép, đọc tụng, không quán tướng đất, tướng nước, lửa, gió, tướng hư không, tướng thức, nên gọi là Di-sa-tắc, pháp y cứ là luật Ngũ phần”. - Năm, Bà-tha-phú-la: Bà-tha-phú-la, Hán dịch là Độc Tử. Ngày xưa có một tiên nhân tâm dục mạnh, giao hợp với trâu cái mà sinh con. Từ đó về sau dòng họ này đều lấy họ là Độc Tử. Bộ phái này chấp ngã chẳng là uẩn, chẳng tức uẩn cũng không lìa uẩn mà có thật ngã. Nhưng Luật bộ chưa truyền đến đất Hán. Kinh Đại tập ghi: “Vì đều thuyết có ngã, không thuyết tướng không, giống như đứa bé, nên gọi là Bà-tha-phú-la”. Những điều luật chế định của năm bộ này hoặc khinh, hoặc trọng, hoặc khai, hoặc già phần lớn đều đồng, nhưng không thể không có những dị biệt nhỏ. Cũng do ngày xưa đấng Pháp vương khéo léo thuận ứng chúng sinh, tùy căn cơ giáo hóa hữu tình. Hoặc thuận thời gian và nơi chốn mà lập giáo; hoặc theo tâm tính và cơ nghi để chế lập; hoặc cấm ở nơi này mà khai tại nơi kia; hoặc khai cho người này mà cấm đối với người kia. Vì căn cơ và quốc độ không đồng nên pháp truyền trao cũng chẳng phải một. Chỗ chấp của năm bộ vốn chỉ từ một lời của chính Như Lai thuyết ra, chỉ vì người thấy nghe không bao quát, trì tụng có thiếu sót, mỗi mỗi chỉ y cứ vào một bên, nên thành nhiều bộ khác nhau. Hơn nữa cũng do ngày nay thời gian cách Phật quá xa, khí vận của Phật pháp hẳn phải như thế. Vì vậy, khi Như Lai còn tại thế, có giấc mộng một tấm lụa phân làm năm phần, và chia cây gậy vàng. Đức Phật huyền kí mai sau kinh luật sẽ phân thành năm bộ phái, mười tám chi lưu. Như một vị trời đáp lời ngài Nam Sơn: “Sau khi thành đạo ba mươi tám năm, Thế Tôn ôm bát cũ của Phật Ca-diếp để lại đến thành Vương Xã thụ trai. Sau khi thụ trai xong, Như Lai bảo tôn giả La-vân đến ao rồng rửa bát. La-vân lỡ tay làm vỡ bát thành năm mảnh. Lại có điềm mộng một tấm lụa tự chia thành năm đoạn. Tôn giả thưa Phật. Phật liền bảo: “Đó là điềm biểu thị sau khi Như Lai diệt độ, kinh luật sẽ phân thành năm bộ”. Lại nữa vua Bình-sa nằm mộng thấy cây gây vàng gãy làm mười tám đoạn. Vua vô cùng sợ hãi thưa Phật. Phật bảo: “Sau khi Ta diệt độ hơn một trăm năm, có vua A-thâu-ca cai trị Nam Thiệm-bộ châu. Bấy giờ các bí-sô dù phân chia giáo của Ta thành mười tám bộ, hướng đến môn giải thoát, nhưng chỉ một cội nguồn. Giấc mộng ấy là điềm dự báo trước việc này. Xin Đại vương chớ lo buồn!”. Kinh Đại tập ghi: “Năm bộ tuy khác nhau, nhưng đều không chướng ngại pháp giới chư Phật và Đại niết-bàn. Nương theo đó tu tập thì đều được giải thoát”. Kinh Văn-thù vấn ghi: “Vào đời vị lai, đệ tử của Ta có hai mươi bộ, đều có khả năng làm cho các pháp trụ thế. Người của hai mươi bộ đều được tứ quả, tam tạng bình đẳng, không có thượng-trung-hạ, giống như nước biển, chỉ một vị mà thôi. Như người có hai mươi đứa con, đều chân thật nhận được lời dạy của Như Lai. Này Văn-thù-sư-lợi! Hai bộ căn bản đều từ Đại thừa lưu xuất; từ Bát-nhã ba-la-mật lưu xuất. Thanh văn, Duyên giác và chư Phật đều từ Bát-nhã ba-la-mật lưu xuất. Như đất-nước-gió-lửa-hư không là trụ xứ của tất cả chúng sinh; cũng vậy Bát-nhã ba-la-mật và Đại thừa là nơi xuất sinh của tất cả Thanh văn, Duyên giác và chư Phật. Có bài kệ:

Mười tám, hai căn bản,
Đều từ Đại thừa xuất
Không thị cũng không phi
Ta nói vị lai khởi.

 
luoc giai danh nghia luat tu phan2


Hai bộ căn bản là Đại Chúng bộ và Thượng Tọa bộ. Đại Chúng bộ phân ra bảy bộ; Thượng Tọa bộ chia ra mười một bộ. Tổng cộng gốc-ngọn thành hai mươi bộ. Nhưng danh xưng và số lượng các bộ phái, thì kinh, luận, truyện kí ghi không đồng, hoặc thêm hoặc bớt. Có chỗ nói từ năm bộ sinh ra mười tám phái; có chỗ nói từ bốn bộ sinh ra mười tám chi; có chỗ nói trong một nghìn năm dần dần tăng đến năm trăm chi phái. Lời nói đã bất đồng, thì về sự sẽ khó mà có căn cứ rõ ràng. Ở đây chọn lấy điểm đại đồng mà mọi người cùng nghe biết, nói theo tổng và biệt thì gồm có sáu bộ phái. Như Hiền Thủ sớ ghi: “Tổng biệt gồm có sáu bộ, Tăng-kì là tổng, năm bộ trước là biệt. Chúng Tăng-kì bộ hạnh giải đều dung thông, không sinh thiên chấp, tùy thuận dùng hết kiến giải năm bộ để làm hạnh chung, cho nên biết Tăng-kì là tổng, năm bộ là biệt. Nói chung thì có sáu bộ, nhưng hiện nay chỉ có bốn bộ lưu truyền đến đất Hán, thiếu Ca-diệp-di và Bà- tha-phú-la. Nhưng một bộ luật Tăng-kì, xưa nay các sư xác định là bản lược, chưa phải là bản hoàn bị ở Thiên Trúc, vì cho rằng văn luật ít, chỉ có bốn mươi quyển, ý nghĩa trong đó không bao hàm năm bộ, lại chẳng hợp với lời huyền kí của Phật trong kinh Đại tập. Nên nghi đây là lược văn trong quảng văn. Còn các bộ như Thiện kiến, Tì-ni mẫu, Ma-đắc-lặc-già, Tì-nại-da, Ưu-ba-li vấn kinh... đều là chi thuộc của luật; hoặc chỉ là một hai bộ trong số năm trăm chi thuộc. Luật Căn bản thuyết nhất thiết hữu đều thuộc về Tát-bà-đa. Các bộ loại này đã được Phật đích thân dự kí, không cần phải nghi ngờ. Vì danh hiệu sai khác, nên có thị-phi, như một ngọn đèn mồi ra trăm nghìn ngọn đèn. Đèn tùy theo hình dáng mà có khác chứ ánh sáng chiếu soi chỉ là một, đến như công dụng phá trừ tối tăm thì cũng không hai. Cho nên người trong năm nước Thiên Trúc, hễ tu bất kì một pháp nào cũng chúng được đạo quả. Còn đất Hán, từ xưa đến nay thực hành bốn bộ, đồng trì giới luật, đồng chứng Thánh vị. Thật là cam lộ mà bị ném bỏ ở nhân gian, chỉ cần mọi người đồng uống thì tất cả đều trừ được đói khát vậy.

A-BÀN-ĐỀ QUỐC
阿槃提國
Nước A-bàn-đề.

 
luoc giai danh nghia luat tu phan4

A-bàn-đề, còn gọi là A-thấp-
bà A-bàn-đề, gọi tắt là A-thấp-
bà, A-bản-đồ, hoặc gọi là
A-thấp-ma-đà vốn là tên một
con sông. A-thấp-bà, Hán dịch
là Mã, luận Đại Trí độ dịch là
Mã Phong.
Đại Đường Tây Vực kí ghi:
“Nước A-bản-đồ thuộc Tây
Ấn-độ chu vi khoảng hai nghìn
bốn, năm trăm dặm; thủ đô
nước này chu vi hơn hai mươi
dặm. Đất đai nơi đây thích hợp
trồng lúa, đậu và lúa mạch tốt
tươi, nhưng hoa trái ít ỏi, cỏ
cây thưa thớt, thời tiết gió lạnh.
Người dân nước này, tính tình
nóng nảy, nhưng lời lẽ thật thà,
không chuộng việc học hành
nhưng rất kính tin Tam bảo.
Trong rừng trúc lớn cách
đông bắc đô thành nước này
không xa lắm, còn lại di tích của
một ngôi già-lam. Ngày xưa đức
Như Lai ở nơi này cho phép các
tì-kheo mang kíp-phược. Kíp
phược, Hán dịch là ủng. Kế
đến, trong khu rừng phía nam
cách đô thành nước này hơn
tám trăm bộ có một ngôi tháp.
Đây là nơi ngày xưa đức Như
Lai qua đêm gặp trời rét lạnh,
Ngài phải dùng ba y để đắp cho
đến sáng ngày hôm sau, và cho
phép các tì-kheo mặc y nhiều
lớp (Ở vùng Tây Ấn-độ đất đai
phần nhiều cằn cỗi, ranh giới phía
tây lại tiếp giáp với bên ngoài, cho
nên đất rất cứng, khô cằn sỏi đá,
có nhiều dấu chân trâu lồi lõm,
nên Ngài cho phép các tì-kheo mang
giày nhiều lớp).



MỤC LỤC

A-bàn-đề quốc
A di
A-di-đầu
A-di-đầu-sí-xá Khâm-bà-la
A-di-la-bạt-đề hà
A-du-ba-la Ni-câu-luật thụ
A-đầu
A-đề-lê-dạ
A-già-lâu-la quốc
A-hi-vật-đa
A-hô Hằng hà sơn
A-la-ba-già-na
A-la-bà tì-kheo-ni
A-la-hán
A-la-lê cách tỉ
A-lam-ca-lam
A-lan-nhã
A-lê-đà
A-lê-lặc
A-lê-trá.
A-luyện-nhã
A-ma-lặc
A-ma-lặc quả
A-ma-lê

...

Y dĩ cánh
Y giá.
Y-la-bà-đề hà
Y-la-bà-ni.
Y-la-bát-la.
Y-lê-a-nhã trước y
Y-lê-diên-đà, mạo la, mạo mạo la.
Y lộc
Y quát.
Y sư bì
Y thời ưng sức
Ỷ phát
Yêm tí.
Yến điểu
Yết-ma
Yết-na
Yêu đới
     

 

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây