LUẬT MA HA TĂNG KỲ - HT THÍCH PHƯỚC SƠNHán Dịch: Sa Môn Pháp Hiển Việt Dịch: Thích Phước Sơn Nhà Xuất Bản: Tôn Giáo Khổ: 14,5x20,5cm Năm Xuất Bản: 2018 Hình Thức: Bìa Mềm Trọn Bộ: 4 QuyểnMHTKSÁCH VỀ LUẬT300.000đSố lượng: 40 Bộ
Lời Nói Đầu Nhân duyên đưa đến việc dịch bộ Luật Ma-ha-tăng-kỳ này thực là hi hữu. Số là vào cuối năm 1989, Hòa thượng Huệ Hưng, Hiệu phó Trường Cao cấp Phật học (nay là Học Viện Phật giáo Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh) đang đảm nhiệm môn Luật của Trường thì đột nhiên lâm bệnh. Khi lên Bệnh viện hầu thăm Hòa thượng, tôi được Hòa thượng ân cần nắm tay ủy thác phải tạm thời thay thế Hòa thượng hướng dẫn Tăng Ni cho đến hết chương trình. Thật là bỡ ngỡ, nhưng cũng vô cùng cảm động trước tấm lòng thương yêu, tin cậy của bậc tôn sư khả kính, tôi chỉ còn biết cúi đầu vâng lệnh. Thế rồi, sau đó được Hòa thượng Hiệu trưởng chính thức mời phụ trách môn Luật cho trường. Chương trình dạy chủ yếu là dùng 2 bộ sách Yết Ma Yếu Chỉ và Tứ Phần Hiệp Chú do Hòa thượng Bổn sư (thượng TRÍ hạ THỦ) chủ trì biên soạn; một công trình khá công phu và nghiêm túc. Trong lúc tra cứu thêm về những chỗ dẫn chứng trong sách, đồng thời tham khảo ý kiến của Hòa thượng Đỗng Minh - một vị được xem là đặc biệt quan tâm đến vấn đề Luật học - tôi được Hòa thượng khuyến khích dịch bộ Luật Tăng -kỳ này. Thế là cố gắng sắp xếp thì giờ, tôi bắt đầu phiên dịch từ ngày 29-01-1996, dịch đến đâu, Hòa thượng đọc lại đến đó, đồng thời chịu khó cặm cụi sửa chữa những chỗ sai sót một cách tận tình. Việc làm đó quả thực là một nguồn động viên vô cùng quí giá.
Lúc bắt đầu dịch khó tránh khỏi một vài trường hợp lúng túng, nhưng qua thời gian, các khó khăn dần dần được khắc phục, rồi một niềm phấn khởi phát sinh; nhất là qua phương pháp giáo huấn của đức Từ Phụ, vừa rõ ràng sinh động, vừa chí lí, chí tình, có ân mà cũng có uy, khiến cho người thụ giáo cảm nhận một sức thuyết phục phi thường. Theo lẽ, một dịch giả đúng nghĩa phải hội đủ 3 phương diện: Một là nắm vững ngôn ngữ của nguyên bản. Hai là tinh thông tiếng mẹ đẻ. Ba là am tường nội dung của vấn đề. Mặc dù thấy mình còn nhiều điều bất cập, nhưng vì nhu cầu học hỏi và công việc giảng dạy thúc đẩy, tôi đành phải cố gắng tuân thủ 3 nguyên tắc mà học giả Hồ Thích đã đề xướng và được giới dịch thuật đồng tình chấp nhận, đó là: TÍN, ĐẠT và NHÃ. TÍN nghĩa là trung thành với nguyên bản. ĐẠT nghĩa là lột tả chính xác nội dung của vấn đề. NHÃ nghĩa là phải vận dụng ngôn ngữ trong sáng và tao nhã. Nếu không thể hội đủ cả 3 phương diện thì phải cố gắng vận dụng một hoặc hai phương diện đến mức độ tốt nhất. Có như thế mới hi vọng bản dịch được độc giả dễ dàng tiếp nhận.
Dịch từ một bản văn cách nay đã hơn 15 thế kỉ, mà bản văn này lại là dịch phẩm chứ không phải nguyên bản nên chẳng dễ dàng chút nào. Nhưng may mắn là bản văn khá mạch lạc, nhất quán và tương đối sáng sủa, nên cũng ít khi gặp trở ngại. Bởi lẽ, hai Đại sư Phật -đà-bạt-đà-la và Pháp Hiển không những tinh thông Luật học mà phương pháp làm việc cũng rất nghiêm túc và cẩn trọng.
Khi dịch, tôi đã cố gắng tối đa vận dụng ngôn ngữ hiện đại phổ thông và trong sáng để phô diễn, tuy vậy, khó tránh khỏi một số hạn chế nhất định. Chẳng hạn, các thuật ngữ chuyên môn của Luật học mang nhiều nội dung hàm súc, bắt buộc phải giữ nguyên phiên âm chứ không thể chuyển dịch. Ngoài ra, vì bối cảnh lịch sử, địa lí và văn hóa của Ấn Độ có nhiều điểm bất đồng đối với nước ta, do thế,về nhân danh, địa danh cũng như tên gọi của một số động vật, thực vật và y phục v.v...không có từ ngữ tương đương để phiên chuyển, nên đành phải để nguyên dạng phiên âm.
Bộ Luật này được phiên dịch là nhằm mục đích dùng để tham khảo giảng dạy, đồng thời cũng là một món quà tinh thần bé nhỏ kính cẩn dâng lên báo đáp phần nào công ơn pháp nhũ của các bậc ân sư trực tiếp cũng như gián tiếp. Và nếu nó may mắn được giới độc giả thể tất, thì có thể xem như là một sự đóng góp nhỏ nhoi vào công trình chuyển ngữ Tam tạng Thánh giáo sang tiếng Việt, một sự nghiệp to lớn mà tất cả Tăng Ni Phật tử Việt Nam đang khát khao mong đợi.
Cuối cùng, xin chân thành cảm ơn thầy Tâm Hạnh đã nhiệt tình lo việc in ấn một cách chu đáo; cảm ơn nữ Phật tử Thọ Huệ, Nguyên Hạnh đã hoàn thành xuất sắc công đoạn đánh vi tính; cảm ơn Sư cô Từ Nghĩa tận tụy hoàn thành khâu vi tính sau cùng. Xin hồi hướng tất cả công đức lên Tam bảo chứng minh, thành tâm nguyện cầu cho kho tàng Pháp bảo đuợc tồn tại miên trường trên cõi đời này. Thiền Viện Vạn Hạnh ngày 4, tháng 1, năm 2000 Người dịch kính cẩn ghi lại, Thích Phước Sơn
Trích “Quyển Thứ Nhất - Giới Dâm Dục”: Giới Thứ Nhất Của Bốn Baladi Nếu thiện nam tử có lòng tin thuần thành, muốn được năm việc lợi ích, phải giữ gìn trọn vẹn Luật này. Thế nào là năm việc lợi ích?
1. Nếu thiện nam tử muốn xây dựng Phật pháp, phải giữ gìn trọn vẹn Luật này. 2. Nếu muốn chánh pháp được tồn tại lâu dài, phải giữ gìn trọn vẹn Luật này. 3. Nếu muốn khỏi nghi ngờ, hối hận, khỏi thưa hỏi người khác, phải giữ gìn trọn vẹn Luật này. 4. Vì để làm chỗ nương tựa cho những Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni do phạm tội mà sinh lo sợ, nên phải giữ gìn trọn vẹn Luật này. 5. Vì muốn du hóa mọi nơi mà không bị chướng ngại, nên phải giữ gìn trọn vẹn Luật này.
Đó gọi là thiện nam tử có lòng tin thuần thành nhờ giữ gìn Luật này mà được năm việc lợi ích.
Nếu muốn giữ trọn vẹn Oai nghi do Phật chế Thành tựu năm công đức Phải nghe Thế Tôn dạy. Người giữ gìn Luật này Khéo nghe rõ ý nghĩa Nếu giữ được trọn vẹn Giới Luật của đức Phật Là xây dựng Phật pháp Chính danh chân Phật tử. Phật pháp được lâu dài, Chánh pháp được truyền bá Chẳng nghi ngờ điều chi Khỏi phải hỏi kẻ khác. Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni Phạm tội có chỗ dựa Đi du hóa phương nào Đều không gặp chướng ngại.
Đức Thế Tôn Chánh Đẳng Chánh Giác từ lúc phát tâm tu tập cho đến nay đã thành tựu, vì muốn độ người nên an trú tại thành Xá vệ. Chư Thiên, nhân loại cung kính cúng dường, tôn trọng tán thán, danh vang khắp mười phương, xem ngài như bậc tối thắng trong các bậc đáng cúng dường. Chúng sinh nào cầu phước đức, ngài ban cho phước đức. Chúng sinh nào cầu kết quả, ngài ban cho kết quả. Chúng sinh nào khổ não ngài làm cho an ổn. Ngài vì Chư thiên, nhân loại mà mở cửa cam lồ. Thế nên, 16 nước lớn không nước nào là không phục tùng. Những ai chính mình thấy biết cách an trú của Phật thì đều hiểu rằng đó là cách an trú (227b) của chư Thiên, là cách an trú của Phạm thiên, là cách an trú của hiền thánh, là cách an trú cao cả nhất, là cách an trú với trí tuệ tuyệt vời, được tự tại, tùy ý mà an trú. Do đó, đức Như Lai an trú tại thành Xá Vệ.
Lúc bấy giờ tôn giả Xá Lợi Phất đang ngồi kiết già nhập định một mình tại nơi thanh vắng, sau khi xuất định liền suy nghĩ rằng: "Vì nhân duyên gì mà sau khi chư Phật diệt độ, giáo pháp không tồn tại lâu dài? Và vì nhân duyên gì mà sau khi chư Phật diệt độ, giáo pháp được tồn tại lâu dài?". Thế rồi vào lúc xế chiều, sau khi xuất định, tôn giả Xá Lợi Phất đi đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Phật, rồi ngồi sang một bên. Ngồi xong, tôn giả bạch Phật: "Bạch Thế Tôn! Con ngồi nhập định tại một nơi thanh vắng sau khi xuất định, con suy nghĩ rằng vì nhân duyên gì mà chư Phật sau khi diệt độ, giáo pháp không tồn tại lâu dài? Vì nhân duyên gì mà sau khi chư Phật diệt độ, giáo pháp được tồn tại lâu dài?"
Khi ấy Phật bảo Xá Lợi Phất: "Này Xá Lợi Phất! Có những đức Như Lai không nói rộng cho các đệ tử các Kinh như: "Tu Đa La, Kỳ Dạ, Thọ Ký, Già Đà, Ưu Đà Na. Như Thị Ngữ, Bản Sinh, Phương Quảng, Vị Tằng Hữu. Này Xá Lợi Phất! Có những đức Như Lai không chế giới cho các Thanh Văn, không quy định cách thức tụng Ba la đề mộc xoa (giới). Do đó, sau khi đức Như Lai diệt độ giáo pháp không tồn tại lâu dài.
Này Xá Lợi Phất! Ví như thợ làm hoa và đệ tử đem các thứ hoa có nhiều màu sắc để trên bàn, mà không dùng chỉ xâu lại, nếu có gió từ bốn phương thổi đến, thì hoa sẽ bay tứ tán. Vì sao thế? Vì không dùng chỉ xâu lại. Cũng vậy, này Xá Lợi Phất, đức Như Lai nào không nói rộng 9 bộ Kinh cho các đệ tử, không chế giới cho Thanh Văn, không quy định tụng Ba la đề mộc xoa, thì sau khi đức Như Lai diệt độ giáo pháp không tồn tại lâu dài. Này Xá Lợi Phất! Đức Như Lai nào nói rộng 9 bộ Kinh cho các đệ tử, chế giới cho Thanh Văn, quy định tụng Ba la đề mộc xoa, thì sau khi đức Như Lai diệt độ, giáo pháp tồn tại lâu dài. Này Xá Lợi Phất! Ví như thợ làm hoa và đệ tử đem các thứ hoa có nhiều màu sắc dùng chỉ xâu lại, thì dù có gió từ bốn phương thổi đến cũng không bay tứ tán. Vì sao vậy? Vì đã có chỉ xâu, cũng vậy, này Xá Lợi Phất! Đức Như Lai nào nói rộng 9 bộ Kinh, chế giới cho Thanh Văn, quy định tụng Ba la đề mộc xoa, thì sau khi đức Như Lai diệt độ, giáo pháp sẽ tồn tại lâu dài. Này Xá Lợi Phất! Vì các nhân duyên ấy mà giáo pháp hoặc tồn tại lâu dài, hoặc không tồn tại lâu dài".
Khi ấy, tôn giả Xá Lợi Phất bạch Phật: "Bạch Thế Tôn! Kính xin Thế Tôn nói rộng 9 bộ Kinh, khéo chế giới cho Thanh Văn, quy định cách thức tụng Ba la đề mộc xoa, (227c)để cho giáo pháp tồn tại lâu dài. Thế Tôn hãy vì Chư Thiên, nhân loại mà mở cửa cam lồ".
Lúc bấy giờ Phật bảo Xá Lợi Phất: "Nếu chưa có nhân duyên lầm lỗi thì Như Lai chưa chế giới cho đệ tử và chưa quy định cách thức tụng Ba la đề mộc xoa. Này Xá Lợi Phất! Ví như Chuyển Luân Thánh Vương chưa đặt ra hình phạt, nếu như Bà la môn, cư sĩ chưa phạm phải lỗi lầm. Cũng vậy, này Xá Lợi Phất! Như Lai cũng thế, nếu chưa có nhân duyên lầm lỗi thì Như Lai chưa chế giới cho đệ tử, chưa quy định cách thức tụng Ba la đề mộc xoa. Nhưng này Xá Lợi Phất! Trong tương lai có những thiện nam tử có lòng tin chân chánh đối với Phật pháp, đã bỏ nhà xuất gia, nhưng có người vì tâm loạn điên đảo, khởi lên tịnh tưởng (Tưởng lầm sắc đẹp là trong sạch), do ba độc mãnh liệt mà phạm các tội lỗi. Này Xá Lợi Phất! Chỉ khi ấy, Như Lai mới chế giới cho các dệ tử và quy định cách thức tụng Ba la đề mộc xoa. Hãy thôi đi Xá Lợi Phất, Như Lai tự biết lúc nào cần phải làm gì"…
MỤC LỤC: GIỚI PHÁP CỦA TỈ-KHEO QUYỂN 1: GIỚI BA-LA-DI Giới: Dâm dục QUYỂN 2: Giới: Trộm cắp QUYỂN 3: (Giới: Trộm cắp tiếp theo) QUYỂN 4: Giới: Sát sinh Giới: Đại vọng ngữ QUYỂN 5: GIỚI TĂNG TÀN Giới: Cố ý làm xuất tinh Giới: Xúc chạm nữ thân Giới: Nói năng thô tục Giới: Yêu cầu ngươi nữ hiến thân QUYỂN 6: Giới: Làm mai mối Giới: Làm nhà quá mức quy định Giới: Không mời Tăng chỉ chỗ làm nhà Giới: Vì tức giận mà vu khống người khác QUYỂN 7: Giới: Xuyên tạc để hủy báng Giới: Phá sự hòa hợp của Tăng Giới: Đồng lõa với người phá Tăng Giới: Ngoan cố Giới: Làm hoen ố Tín đồ GIỚI BẤT ĐỊNH Giới: Ngồi chỗ khuất với người nữ Giới: Ngồi chỗ trống với người nữ QUYỂN 8: GIỚI NI-TÁT-KÌ Giới: Cất y dư quá hạn Giới: Rời y mà ngủ Giới: Cất vải quá hạn Giới: Nhận y của người không phải bà con QUYỂN 9: Giới: Nhờ Ni không phải bà con giặt y Giới: Xin y của người không phải bà con Giới: Nhận vải quá mức quy định Giới: Xin Tăng thêm tiền sắm y … QUYỂN 10: Giới: Cầm vàng bạc, tiền của Giới: Buôn bán Giới: Mua bán vàng bạc … QUYỂN 11: Giới: Cho y rồi lấy lại Giới: Sắm áo mưa quá thời hạn Giới: Đi xin chỉ sợi về dệt vải Giới: Quịt tiền công của thợ dệt … QUYỂN 12: GIỚI BA-DẠ-ĐỀ Giới: Cố ý vọng ngữ Giới: Dèm pha thành phần nghề nghiệp kẻ khác Giới: Nói để ly gián Giới: Khơi lại sự tranh cãi (7 Pháp Diệt tránh) QUYỂN 13: Giới: Thuyết pháp cho phụ nữ quá giới hạn Giới: Dạy người chưa thọ cụ túc đọc tụng Giới: Nói thật rằng mình đắc đạo QUYỂN 14: Giới: Nói tội nặng của Tỉ kheo khác Giới: Đồng ý Yết ma, sau phủ nhận Giới: Hủy báng giới pháp Giới: Chặt phá cây sống … QUYỂN 15: Giới: Cưỡng chiếm chỗ nằm của người khác Giới: Ngồi giường có chân nhọn Giới: Dùng nước có vi sinh trùng Giới: Lợp nhà quá 3 lớp Giới: Tự đi dạy Ni Giới: Giáo giới Ni cho đến trời tối … QUYỂN 16: Giới: Ăn quá giới hạn được cúng dường Giới: Ăn nhiều lần trong ngày Giới: Ăn rồi, ăn lại Giới: Khuyên người ăn xong ăn nữa Giới: Ăn thức ăn không được mời QUYỂN 17: Giới: Ăn phi thời Giới: Nhận thức ăn quá mức đã cho Giới: Đòi thức ăn ngon Giới: Không bệnh mà nhóm lửa … QUYỂN 18: Giới: Bao che người có lỗi Giới: Chứa chấp Sa-di bị đuổi Giới: Mặc y không hoại sắc Giới: Cất giữ bảo vật Giới: Tắm quá giới hạn cho phép … QUYỂN 19: Giới: Che giấu tội của Tỉ kheo khác Giới: Giết hại sinh vật Giới: Gây phiền toái Tỉ kheo khác Giới: Y cho rồi, lấy mặc lại Giới: Giấu vật dụng người khác … QUYỂN 20: Giới: Nhận cúng dường quá giới hạn Giới: Chống lại sự khuyên bảo Giới: Uống các thứ rượu Giới: Khinh thường người khác Giới: Lén nghe sự tranh cãi Giới: Lặng lẽ bỏ cuộc họp mà đi … … GHI CHÚ RIÊNG VỀ LUẬT TĂNG-KÌ QUẢ BÁO SAI KHÁC VỀ SỰ PHẠM GIỚI