CHÚ GIẢI LUẬT THIỆN KIẾN - TÂM HẠNHHán Dịch: Tăng Già Bạt Đà La Việt Dịch: Tâm Hạnh Nhà Xuất Bản: Tôn Giáo Số Trang: 821 Trang Hình Thức: Bìa Cứng Khổ: 14,5x20,5cm Năm Xuất Bản: 2011 Độ Dày: 5cmLT02SÁCH VỀ LUẬT140.000đSố lượng: 1000003 Quyển
Hán Dịch: Tăng Già Bạt Đà La Việt Dịch: Tâm Hạnh Nhà Xuất Bản: Tôn Giáo Số Trang: 821 Trang Hình Thức: Bìa Cứng Khổ: 14,5x20,5cm Năm Xuất Bản: 2011 Độ Dày: 5cm
Lời Người Dịch Chú Giải Luật ThiệnKiến, nguyên bản Thiện kiến tỳ bà sa (Paly: Samantapàsàdikà) 18 cuốn, do Tăng-già-bạt-đà-la (Sanghabhadra - Chúng-Hiền, Đệ tử Ngài Buddhaghosa) dịch từ thời Nam-Tề, vào khoảng Vĩnh minh năm thứ 06 Dương lịch năm 488 tại chùa Trúc lâm, Quảng châu, Trung quốc, giải thích Luật Theravàda theo truyền thừa của Thượng tọa bộ Tích-lan. Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
Từ Quyển 1 đến Quyển 5 ghi lại một phần sinh hoạt của Tăng đoàn sau khi Phật Niết bàn, các cuộc kiết tập kinh điển và sự truyền trì luật tạng, chư tổ truyền thừa, sinh hoạt tăng đoàn... đến sự việc Trưởng lão Mahinda con trai vua A-dục truyền Phật giáo sang Tích lan. Từ Quyển 5 trở về sau giải thích giới bản tỳ kheo và các kiền độ. Đối chiếu bộ luật này với Nam truyền Đại tạng kinh thì phần Tựa nằm ở phần Thiện-kiến luật chú tự tập 70, phần sử vua A-dục và chư tổ truyền thừa ở phần Đại vương thống sử tập 65, từ Quyển 5 trở về sau nằm phân tán trong Luật tạng từ tập 1 đến 5.
Bộ luận này là một bản sao dịch từ bản chú giải Luật tạng Nam truyền của Luận sư Phật-Minh Buddhaghosa soạn thuật vào đầu thế kỷ thứ V. Trong Bộ luận này có nói đến sự việc không chấp nhận các học giới liên quan đến tháp Phật trong phần chúng học pháp của luật Tứ phần. Thứ tự và nội dung giải thích từng học giới trong bộ này theo thứ tự luật tạng Nam truyền và quan điểm của Thượng tọa bộ Tích lan mà tài liệu trích dẫn là Luật tạng Theravàda, Thanh tịnh đạo luận Visuddhimagga của Ngài Phật Minh và những mẫu chuyện về trì luật tại Tích-lan.
Nguyên bản, các giới không ghi rõ thứ tự, chúng tôi cho thêm thứ tự theo chú thích của tạng Đại chính và giới bản của Luật tạng Theravàda.Trong phần giải thích, có những câu không nêu rõ chánh văn Luật mà chỉ giải thích, chúng tôi dịch theo ý những đoạn tương đương trong Luật tạng Nam truyền.Với những câu mà nguyên bản trích dẫn Thanh tịnh đạo luận nhưng tối nghĩa, tôi dịch theo những câu tương đương trong bản Việt dịch Thanh tịnh đạo của Ny sư Trí Hải.Phần giải thích từng học giới và các Kiền độ, gặp những chổ khó hiểu, chúng tôi dựa theo phần giải thích trong Luật xuất gia của Ngài Hộ Tông, Tứ thanh tịnh giới của Ngài Bửu Chơn và Tứ phần hợp chú, Yết ma yết chỉ của Hòa thượng Trí Thủ để dịch.
Ngoài ra, gặp những chổ ngoài khả năng, không tìm được tài liệu, chúng tôi có tham khảo ý kiến nơi Thầy Viên-Minh và Đại đức Hộ-Pháp ở Bửu long.Bản Hán dịch này không đầy đủ như nguyên bản chú giải bằng Pàly của Ngài Buddhaghosa, có một số học giới bị lược đi, phần giải thích cũng chỉ nêu ra những vấn đề cần thiết. Ngay cả trong phần giải thích này, nếu không đối chiếu với Luật tạng Nam truyền và tham khảo các bản chú thích khác về luật thì cũng khó nhận định được các vấn đề mà tác giả muốn nói.
Dịch bộ luật này, chúng tôi hy vọng giới thiệu đến độc giả một tác phẩm của Phật giáo Nam truyền nằm trong hệ Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh mà trước đây đã được các vị luật sư theo hệ Bắc truyền ở Đông Nam Á thường trích dẫn trong các bản chú thích về luật trong Luật bộ Hán dịch. Đồng thời, chúng tôi cũng muốn đóng góp một phần tài liệu về luật Theravàda cho quý vị Tăng ny trong các hệ phái ở Việt nam có lưu tâm nguyên cứu về Luật. Ngoài ra, bản dịch này cũng để đáp ứng một phần tâm nguyện dịch Tạng luật ra Việt ngữ của Thầy Tịnh Hạnh, Đài Loan.
Những thuật ngữ, danh từ, những vấn đề mà bản Hán văn phiên âm hay giải thích theo cách Hán dịch, chúng tôi ghi Pàly vào để người đọc dễ nhận định. Tuy nhiên, có những đoạn, chúng tôi ghi cả nguyên văn Pàly vào để các vị đọc giả chỉ giúp chúng tôi rõ ý nghĩa vấn đề nếu phát hiện những chổ sai nhầm hay không đúng với truyền thống Luật của Theravàda do người dịch hay từ bản Hán dịch thì chúng tôi sẽ sửa lại và chú thích rõ.Sau khi dịch xong, tôi được Luật sư Thích Đỗng Minh chứng nghĩa cho từng cuốn.
Bản dịch này, chúng tôi sử dụng những thuật ngữ đang dùng trong các bộ luật của Nam tông và Bắc tông bằng Việt ngữ đang lưu hành. Tuy nhiên, vẫn có những câu, những đoạn sẽ khó hiểu đối với những vị chưa quen tiếp cận với văn luật và đó là điều chúng tôi không thể làm khác đi được.Đây là bản dịch chưa hoàn chỉnh, tôi thành kính mong các vị thiện tri thức chỉ dạy cho những chổ sai, sót để bản dịch này được sửa chửa hoàn chỉnh hơn. Long sơn Vihàra, Nha-trang. Mùa hạ PL 2543 Tỳ kheo TâmHạnh
Trích “Quyển Thứ Nhất – Phẩm Tựa”: Thành kính đảnh lễ chư Phật . Ðấng trong trăm ức kiếp, Thời gian không thể lường, Vì tất cả chúng sinh, Ðến tận nơi cực nhọc, Ðể độ khắp thế gian, Quy y Ðại-từ-bi. Do không biết giáo pháp, Sinh tử mãi thế gian, Cúi đầu xin đảnh lễ, Pháp vi diệu thậm thâm. Phá trừ tan nát hết, Lưới vô minh phiền não. Bậc đủ Giới-định-tuệ, Giải thoát, hạnh viên mãn, Tu tập nhiều công đức, Tăng bảo ruộng phước tốt, Con nhất tâm quy ngưỡng, Ðem đầu mặt kính lạy. Quy kính Tam-Bảo rồi, Xin thuyết nghĩa Tỳ-ny, Ðể chánh pháp trường tồn, Lợi ích khắp chúng sinh, Nguyện đem công đức này, Tiêu trừ các nạn ác, Ai ưa thích trì giới, Giải thoát các khổ đau.
Thành kính đảnh lễ Ðức Thế Tôn, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri Xin thuyết minh rằng: - Giới luật được nói lần đầu tiên khi đức Thế Tôn ở tại Tỳ-Lan-Nhã (Tena samayena buddho bhagavà veranjàyam viharati). Ðiều này được Ưu Ba Ly (Upàli) là vị đứng đầu nói ra trong đại hội kết tập giữa đại chúng 500 vị Tỳ kheo. Vì sao? Khi mới thành đạo, Như Lai đến vườn Lộc-dã chuyển pháp luân Tứ-đế, cuối cùng thuyết pháp độ Tu Bạt Ðà La (Subhadda). Khi làm xong những điều cần làm, giữa rừng cây Sa-la thuộc quốc vương họ Mạt-la (Màla) nước Câu-thi-na (Kusinarà) vào lúc rạng sáng ngày 15 tháng 2 (Visakhà punnamadivasa paccùsasamaya), Ngài nhập Vôdư Niết-bàn. Sau đó bảy ngày, từ nước Diệp-Ba (Pàvà) Ca Diếp cùng 500 Tỳ kheo tăng trở về nước Câu-thi-na thăm viếng Thế Tôn. Trên đường gặp một đạo sĩ, Ca Diếp hỏi: - Ông gặp đại sư của tôi không?
Ðạo sĩ đáp: - Sa môn Cù-Ðàm thầy của ông qua đời đã bảy ngày rồi. Sau khi vị ấy Niếtbàn, trời người đến cúng dường, tôi lấy được hoa trời Mạn-đà-la này ở đó.
Nghe Phật đã Niết-bàn, Ca Diếp cùng các đại Tỳ kheo quay quắt khóc lóc ngã lăn ra đất. Khi ấy, có Tỳ kheo tên Tu-Bạt-Ðà-La Ma-Ha-La (Subhadra mahallaka) nói rằng thôi ngừng lại đi, có gì đáng khóc, khi Ðại sa-môn ấy còn sống thì việc này tịnh, việc này bất tịnh, việc này nên làm, việc này không nên làm; từ nay tùy theo ý thích của ta, muốn làm thì làm, không làm thì thôi. Im lặng ghi nhớ lời nói ấy, Ca-Diếp suy nghĩ: ác pháp chưa phát sinh, hãy kết tập pháp-tạng. Nếu chánh pháp có mặt ở đời thì lợi ích cho chúng sinh. Ca-Diếp lại suy nghĩ: khi còn tại thế, Phật bảo A-Nan rằng sau khi Ta Niếtbàn, những pháp và giới đã được nói ra là vị Thầy cao cả của ông (Dhammo ca vinayo ca desito pannatto so vo mam' accayena satthà), vì vậy Ta sẽ thuyết pháp ấy.
Ca-Diếp thầm nghĩ: khi còn tại thế Như Lai đã đem y ca-sa (Kàsàyani vatthàni) cho ta. Và đức Phật đã từng bảo các Tỳ kheo rằng khi Ta vào thiền định thứ nhất, Ca-Diếp cũng vào định ấy; như vậy là Như Lai khen ngợi ta. Ta được thánh lợi mỹ mãn không khác gì Phật. Ðó là nhờ công đức của Như Lai ban cho ta. Cũng như người tráng sĩ cổi áo giáp đang mặc trao cho con mình bảo nó bảo hộ giòng dõi. Như Lai biết và nói trước rằng sau khi Ngài diệt độ, Ca-Diếp sẽ hộ trì chánh pháp. Thế nên Như Lai ban y ấy cho ta. Tập họp các Tỳ kheo tăng.
Ca-Diếp nói: - Trước đây, tôi nghe Tu-bạt-đà-la ma-ha-la nói rằng khi Ðại sa-môn còn sống, việc này tịnh việc này bất tịnh, việc này nên làm việc này không nên làm, từ nay theo ý thích của ta, muốn làm thì làm, không làm thì thôi. Thưa các trưởng lão, chúng ta nên kết tập pháp-tạng và luật-tạng.
Các Tỳ kheo thưa với đại đức Ca-Diếp: - Ðại đức nên lựa chọn các Tỳ kheo. Này Ðại đức Ca-Diếp , vị ái-tận Tỳ kheo thông suốt tất cả chín bộ phận của Phật pháp (Sakalanavangassatthusàsana pariyattidhare), tất cả học nhân Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, không chỉ số trăm hay ngàn vị (aneka sate anekasahassa). Bậc ái-tận Tỳ kheo thông hiểu ba tạng, đạt đến bốn (vô ngại) biện, có năng lực thần thông lớn, chứng ba đạt trí, được Phật khen ngợi, chỉ có 499 vị. Ðại đức Ðại Ca-Diếp lý do chỉ chọn lựa được 499 vị, vì trưởng lão A-Nan (Ananda) đang ở địa vị hữu học (Sekha sakaraniya) nên không được tính vào. Nhưng nếu không có trưởng lão A-Nan thì không có người kết tập pháp. Vì ngăn chận những sự phỉ báng, đại đức Ca-Diếp (Mahàkassapa) không chọn lấy A-Nan.
Do đó, các Tỳ kheo thưa: - A-Nan tuy ở địa vị hữu học nhưng trước đây đã thân cận Phật nên thọ trì kinh và kệ (Sutta geyya), mến chuộng pháp, là bậc kỳ lão, là em con chú trong thân tộc Thích-Ca của Như Lai, lại không còn thân cận với ba độc. Ðại đức Ca-Diếp, nên nhận lấy A-Nan để đủ số 500 vị; đây là ý kiến của thánhchúng. Các vị đại đức Tỳ kheo suy nghĩ: nên kết tập pháp tạng ở đâu? Thành Vương- xá (Ràjagaha) có đầy đủ các việc cho sinh hoạt, chúng ta nên đến đó an cư ba tháng để kết Tỳ-ny tạng, không nên để các Tỳ kheo khác an cư ở đó. Vì sao? Sợ các Tỳ kheo khác không tùy thuận, nên bảo họ đi nơi khác.
Bấy giờ, đại đức Ca-Diếp bạch nhị kiết-ma (nattidutiyakamma) được nói rõ trong phẩm Tăng-kỳ (Samgitikkhandhaka). Sau khi Như Lai Niết-bàn, lễ hội (sàdhukilana) được tổ chức suốt bảy ngày và cúng dường (Dhàtupùja) xá-lỵ trong bảy ngày, kéo dài đến nửa tháng, và chỉ còn một tháng rưỡi nữa là mùa hạ. Biết gần đến an cư, Ca-Diếp bảo các trưởng lão: Ðã đúng lúc chúng ta lên đường đến thành Vương Xá. Ðại đức Ca-Diếp đưa 250 Tỳ kheo đi bằng một đường. Ðại đức A-Nâu-LâuÐà (Anuruddhatthera) đưa 250 Tỳ kheo đi bằng đường khác. Hiền giả ANan giữ ca-sa (pattacìvara) của Như Lai với chúng Tỳ kheo vây quanh đi đến trú xứ cũ của Như Lai tại nước Xá-vệ (Sàvattì). Gặp lại A-Nan, nhân dân thành Xá-vệ, buồn khổ khóc lóc hỏi: - Hiện nay Như Lai ở đâu mà ngài đến một mình vậy?
Mọi người gào khóc như là Như Lai mới vừa vào Niết-bàn. Hiền giả A-Nan giáo hóa mọi người bằng pháp vô thường. Sau khi giáo hóa, A-Nan vào vườn Kỳ-thọ (Jetavana), mở cửa phòng của Phật (Dasabalena vasitagandhakuti), đem giường tòa của Ngài (mancapitha) ra ngoài lau chùi và vào trong dọn rửa phòng, sau khi lau quét, vứt bỏ hoa cúng dường đã héo, rồi xếp đặt giường tòa lại như cũ. Hiền giả A-Nan làm các việc cúng dường như khi Phật còn tại thế. Sau khi Phật nhập Niết-bàn, A-Nan ngồi quá nhiều, thân thể mệt nhọc, muốn điều trị nên phải dùng sữa lấy trong lợi dưỡng tại chùa trong ba ngày. Khi ấy có Bà-la-môn Tu-bà-na (Subha-màvana) đến thỉnh A-Nan.
A-Nan đáp: - Hôm nay tôi dùng thuốc nên không nhận lời được, ngày mai sẽ đến. Hôm sau, A-Nan đem theo một trưởng lão Tỳ kheo đến nhà Tu-bà-na. Vì Tu-bà-na hỏi về ý nghĩa của kinh, thế nên trong phẩm thứ mười của A-hàm gọi là kinh Tu-bà-na (Dìghanikàye Subha-suttam nàma dasamam suttam). Sau khi sửa chữa phòng xá tại vườn Kỳ-thụ xong, muốn nhập hạ an cư nên A-Nan đi đến thành Vương-xá.
Ðại đức Ca-Diếp, A Nậu Lâu Ðà và chúng Tỳ kheo cùng đến thành Vươngxá. Trông thấy cả 18 chùa lớn đều bị hao vì sau khi Như Lai diệt độ, các Tỳ kheo vứt bỏ giá mắc y và các vật khác ngổn ngang để ra đi, nên bừa bãi như vậy, cả 500 đại đức bí sô theo lời Phật dạy, sửa chữa phòng nhà (vihàra parivena). Nếu không sửa chữa thì ngoại đạo sẽ nói rằng khi còn sống, samôn Cù-đàm sửa chữa phòng xá, sau khi Niết-bàn đệ tử vứt bỏ đi. Vì ngăn ngừa sự chê bai này, cần phải sửa chữa.
Ca-Diếp nói: - Khi còn tại thế, đức Phật khen ngợi việc trước tiên của an cư là sửa chữa phòng xá. Sau khi tính toán dự trù, Ca-Diếp đến gặp vua A-Xà-Thế để xin chi phí. Thấy Tỳ kheo đến, vua lạy sát đất làm lễ và thưa: đại đức cần việc gì?
Ca-Diếp đáp: - Cả mười tám chùa lớn đều bị hư, muốn sửa chữa lại, nhà vua biết cho.
Vua đáp: - Lành thay.
Vua cung cấp người đến sửa chữa. Trong tháng trước mùa hạ, Ca-Diếp sửa chữa xong chùa. Sau đó, tôn giả đến gặp nhà vua thưa: - Việc sửa chữa chùa đã xong, hiện nay chúng tôi muốn kết tập pháp-tạng và tỳ-ny-tạng.
Vua đáp: - Rất tốt, cầu chúc ý nguyện thành tựu.
Nhà vua lại nói: - Con sẽ chuyển pháp-luân uy lực của vua chúa (Ànàcakka), các đại đức sẽ diễn thuyết pháp luân vô thượng (Dhammacakka). Con xin tuân hành sự sai khiến của các đại đức.
Chúng tăng đáp: - Trước tiên, xây dựng giảng đường.
Vua hỏi: - Xây dựng chỗ nào?
Ðáp: - Có thể xây bên cạnh cửa thiền thất ở sườn trước của núi Ðể-bàn-naba-la (Vebhàrapabbatapassa Sattapanniguhàdvàra), vì nơi ấy yên tịnh.
Vua thưa: - Rất tốt.
Nhờ vào uy lực của vua A-xà-thế cũng như bằng kỹ xảo của Tỳ-xá-thiên ở cõi trời Ðao-lỵ thứ hai (vissakamma), không bao lâu giảng đường đã hoàn thành với đầy đủ kèo cột, vách ngăn, hành lang, chạm khắc nhiều kiểu kỳ lạ. Trên giảng đường, được trang trí với những vật báu xinh đẹp, treo các loại hoa rực rỡ khắp nơi. Dưới đất cũng vậy, trang trí bằng các loại xinh đẹp kỳ lạ không khác cung điện của Phạm-thiên (Brahmavimàna). Năm trăm tòa ngồi hướng về phương Bắc được trải bằng nệm len dày. Lại nữa, trong số những tòa cao được trang trí bằng các loại báu, chiếc tòa cao tinh xảo xinh đẹp nhất được chọn đặt hướng về phương Ðông để chuẩn bị làm tòa thuyết pháp…
MỤC LỤC Lời Người Dịch Lời Tri Ân Tài Liệu Tham Khảo Bài Tham Khảo QUYỂN I: Sự Việc Sau Khi Đức Phật Nhập Niết-Bàn, Tôn Giả Ca-Diếp Tổ Chức Kiết Tập Pháp Tạng Giải Thích Về Các Từ Ngữ Của Tam Tạng Đại Hội Kiết Tập Tam Tạng Lần Thứ Nhất, Kiết Tập Với Năm Trăm Vị A-La-Hán Phẩm Bạt-Xà-Tử Về Mười Điều Phi Pháp, Kiết Tập Pháp Tạng Lần Thứ Hai, Kiết Tập Với Bảy Trăm Vị Phẩm A-Dục-Vương Về Sự Việc Kiết Tập Pháp Tạng Lần Thứ Ba Truyện Vua A-Dục Tiểu Sử Và Nhân Duyên Xuất Gia Ngài Mahinda Và Sanghamitta, Con Vua A-Dục. QUYỂN II: Tiếp Theo Phần Ngài Mahinda Xuất Gia Vua A-Dục Giải Quyết Bất Hòa Giữa Chư Tăng Tiểu Sử Tôn Giả Đế-Tu (Tissa) Kiết Tập Tam Tạng Lần Thứ Ba Các Vị Tôn Giả Truyền Thừa Mười Sáu Phái Đoàn Truyền Bá Giáo Pháp Của Vua A-Dục Ngài Mahinda Sang Đảo Sư-Tử (Tích-Lan) Các Đời Vua Ở Đảo Sư-Tử Tích Lan Ngài Mahinda Truyền Bá Giáo Pháp QUYỂN III: Tiếp Theo Phần Ngài Mahinda Truyền Pháp Tại Tích-Lan Ngài Tu-Ma-Na Thỉnh Xá-Lợi, Xây Dựng Tinh-Xá, Tháp Xá-Lợi, Hiện Thần Thông Thỉnh Tỳ Khưu Ny Sanghamitta, Con Vua A-Dục, Và Chuyển Cây Thánh Thọ Bồ Đề Sang Tích-Lan Vua A-Dục Đưa Thánh Thọ Bồ-Đề Sang Tích Lan Cây Bồ-Đề Và Sanghamitta Đến Tích-Lan QUYỂN IV: Ngài Mahinda Thành Lập Tăng Đoàn Và Sự Truyền Thừa Giới Luật Tại Tích Lan. Phật Pháp Truyền Bá Khắp Tích-Lan. Mở Đầu Tạng Luật Giải Thích Mười Hiệu Của Đức Phật Chổ Ngồi Của Phật Tử Khi Gặp Phật, Thiên Thượng Thiên Hạ Duy Ngã Độc Tôn Các Dục Và Các Thiền Chi Thuộc Bốn Thiền Sắc Giới QUYỂN V: Tiếp Tục Về Bốn Thiền Sắc Giới Các Cảnh Giới Sinh Và Quả Giải Thoát Giải Thích Ba Quy Y Và Ý Nghĩa Ưu-Bà-Tắc (Nam Phật Tử) Đức Phật An Cư Ở Tỳ-Lan-Nhã Và Phải Ăn Lúa Của Ngựa Phẩm Đại-Mục-Kiền-Liên Giới Bản Và Đời Sống Của Chư-Phật Phẩm Xá-Lợi-Phất: Xá-Lợi-Phất Xin Phật Chế Giới QUYỂN VI: Tiếp Theo Phần Ở Tỳ-Lan-Nhã Phẩm Ca-Lan-Đà Chú Thích Giới Bản Tỳ Kheo Ba-La-Dy Thứ Nhất Dâm Dục. Tu-Đề-Na, Người Phạm Đầu Tiên Mười Điều Lợi Ích Của Sự Chế Định Giới Luật Phẩm Con Vượn Mười Điều Phi Pháp Bốn Loại Luật Và Ba Pháp Của Luật Sư QUYỂN VII: Danh Nghĩa Các Hạng Tỳ Kheo Các Trường Hợp Đắc Giới Của Tỳ Kheo Các Trường Hợp Xả Giới Các Hành Động Bất Tịnh Và Ý Nghĩa Giới Ba-La-Dy Dâm Dục QUYỂN VIII: Nhân Duyên Về Giới Các Trường Hợp Tăng Và Ny Chuyển Căn Thuyết Minh Rõ Về Giới Dâm Dục Giới Ba-La-Dy Thứ Hai: Trộm Cắp Truyền Thuyết Về Thành Vương-Xá Giới Trộm Cắp QUYỂN IX: Giới Trộm Cắp (Tiếp Theo) QUYỂN X: Giới Trộm Cắp (Tiếp Theo) Giới Ba-La-Di Thứ Ba: Giết Người Truyền Thuyết Về Thành Tỳ-Xá-Ly Các Tướng Trạng Của Bốn Thiền Pháp Quán Hơi Thở QUYỂN XI: Giới Giết Người Nói Về Pháp Quán Hơi Thở Giới Ba-La-Dy Thứ Tư: Nói Dối Chứng Pháp Thượng Nhân QUYỂN XII: Tiếp Theo Phần Dối Chứng Pháp Thượng Nhân Các Cảnh Giới Của Ngạ Quỷ Mười Ba Pháp Tăng-Tàn Thứ Nhất: Tiết Tinh Thứ Hai: Xúc Chạm Với Người Nữ QUYỂN XIII: Tiếp Theo Giới Tăng Tàn Thứ Hai Tăng Tàn Thứ Ba: Nói Lời Thô Tục Thứ Tư: Đòi Dâng Cúng Sự Dâm Dục Thứ Năm: Làm Mai Mối Thứ Sáu: Tự Làm Thất Cho Mình Thứ Bảy: Làm Nhà Lớn, Có Người Dâng Cúng Thứ Tám: Vu Cáo Vô Cớ Thứ Chín: Dựa Vào Cớ Khác Mà Vu Cáo Thứ Mười: Phá Tăng Thứ Mười Một: Hỗ Trợ Phá Tăng Thứ Mười Hai: Ngoan Cố Không Nghe Dạy QUYỂN XIV: Tăng Tàn Thứ Mười Ba: Hành Động Xấu,Gây Tiếng Xấu Hai Pháp Bất Định: Pháp Thứ Nhất Pháp Bất Định Thứ Hai Ba Mươi Pháp Ni-Tát-Kỳ-Ba-Dật-Đề Xả-Đọa Ưng-Xả-Đối-Trị: Từ Pháp Số 01 Đến 06 QUYỂN XV: Các Giới Ưng-Xả-Đối-Trị Xả Đọa Tiếp Theo: Từ Pháp Số 07 Đến 30 Pháp Ưng Đối Trị: Pháp Số Từ 01 Đến 23 QUYỂN XVI: Pháp Ưng-Đối-Trị Tiếp Theo: Từ Pháp Số 23 Đến 91 Pháp Ba-La-Đề-Đề-Xá-Ny Ưng Phát Lộ Các Điều Học Giới Tỳ-Kheo-Ny Các Kiền-Độ Truyền Giới Sa-Dy Pháp Đệ Tử Phục Vụ Thầy Và Truyền Thọ Giới Cụ-Túc QUYỂN XVII: Tiếp Phần Giới Tỳ-Kheo Đức Phật Về Thăm Quê Hương, La-Hầu-La Và Các Thích Tử Xuất Gia. Giải Về Các Loại Cương Giới Giải Về Y Phục Giải Về Pháp Dùng Các Loại Thuốc QUYỂN XVIII: Giải Về Y Ca-Thi-Na Giải Về Sự Phạm Tội Và Thể Thức Sám Hối Tranh Cãi Ở Câu-Diệm-Dy Và Cách Giải Quyết Phần Bảy Pháp Diệt Tranh Cãi Giải Về Tỳ-Kheo-Ny Chia Vật Dụng Phẩm Ưu-Ba-Ly Giải Về Luật - Kệ Tụng Và Giải Thích