Lời Giới Thiệu:
Sau khi đức Phật nhập diệt, các đệ tử của Ngài đã nỗ lực không ngừng tiếp nối thực hành và hoằng dương con đường Ngài đã thể chứng và chỉ dạy, dưới nhiều khía cạnh tư tưởng và phương tiện khác nhau. Những nỗ lực ấy đã biến con đường Ngài đi trở thành một tôn giáo lớn trên thế giới, phục vụ cho văn minh, tiến bộ, và hạnh phúc của Nhân loại. Riêng về Phật giáo Ấn Độ, trong suốt chiều dài lịch sử phát triển của nó, trải qua 1500 năm kể từ ngày đức Phật chuyển vận bánh xe chánh pháp lần đầu tiên ở Vườn nai, thành Ba-la-nại, cho đến khi Ấn Độ bị các nước Hồi giáo xâm chiếm, biến thành một tỉnh của nước Hồi giáo Delhi, vào cuối thế kỷ XII A.D., Phật giáo đã phát triển lớn mạnh và đa dạng, có lúc trở thành tư tưởng chủ đạo cho các sinh hoạt của xã hội. 
Vào thế kỷ VII A.D., Đại học Nalanda là một trung tâm giáo dục, văn hóa và học thuật của Ấn Độ đương thời. Trong suốt một ngàn rưỡi năm ấy, Lịch Sử Tư Tưởng Phật giáo Ấn Độ không phải vì tính đa dạng trong quá trình phát triển tư tưởng của mình mà đánh mất năng lực và giá trị cao quý của nó. Điều kỳ diệu này có được là nhờ nó đã luôn luôn tuân thủ nguyên tắc “đồng quy nhi thù đồ” trong quá trình phát triển. Nghĩa là, dẫu đa dạng, nhưng không một bộ phái, một học thuyết nào trong Phật giáo, không được xây dựng trên cái cột sống giáo lý đức Phật đã dạy – giáo lý Duyên khởi và Giải thoát, mà Đại sư Ấn Thuận gọi là Pháp trụ và Niết bàn. Điều kỳ diệu ấy đã được chính đức Phật khẳng định trong kinh 104. Samasuttam của Majjhima Nikaya (tương đương Kinh 196 Châu-na, của Trung A-hàm): “Này A-nan, đối với những pháp Ta dạy cho các Ông với thượng trí, như Bốn niệm trú, Bốn chánh cần, Bốn như ý túc, Năm căn, Năm lực, Bảy bồ-đề phần, Thánh đạo tám ngành, ông thấy có hai tỳ-kheo nào có những tuyên bố sai khác nhau về chúng không? …. Này A-nan, sự tranh luận về Tăng thượng hoạt mạng (ajjhajiva), Tăng thượng Giới bổn (Patimokkha) là chuyện nhỏ nhặt. Này A-nan, sự tranh luận khởi lên giữa Tăng chúng về con đường (Magga), về đường hướng tu hành (Pati-pada) mới đưa đến bất an cho đa số, thất lợi cho đa số, bất an, đau khổ cho loài trời, loài người.”
Quả thật, sự khác biệt về Giới bổn dẫn đến cuộc Kết tập thứ hai tại thành Vesali vào 100 năm sau ngày Phật nhập diệt, vẫn không làm suy yếu sự phát triển đa dạng của Phật giáo Ấn Độ khi nó tùy theo các điều kiện thực tiễn mà thể hiện một cách linh hoạt hạt nhân giáo lý Duyên khởi và Niết bàn Phật dạy. Quá trình phát triển đa dạng ấy bắt đầu xảy ra chỉ hai tháng sau khi đức Thế tôn nhập diệt, tại thành Vương Xá của Ma-kiệt-đà. Vào ngày đầu mùa An cư năm ấy, đoàn thể xuất gia đệ tử của Phật đã hình thành cùng một lúc hai đại hội để kiết tập lại Kinh và Luật đức Phật dạy. Một đại hội gồm 500 vị trưởng lão A-la-hán do ngài Đại Ca-diếp triệu tập tại động Thất Diệp trên ngọn Vaibhara, và một đại hội khác ở bên ngoài, gồm 10 ngàn tỳ-kheo do trưởng lão A-la-hán Bà-Sư-Ba chủ trì.
Điểm khác biệt chủ yếu giữa hai đại hội này, theo các tư liệu ghi lại trong Luật tạng của các bộ phái cho biết, đó là đại hội một chỉ trùng tuyên hai tạng Kinh và Luật, nhưng đại hội bên ngoài còn trùng tuyên thêm Tạp tạng và Đại sĩ tạng. Sự khác biệt này mở đầu hình thành hai bộ phái chính thường được gọi là Thượng tọa bộ và Đại chúng bộ, rồi phát triển thành 20 bộ phái của Phật giáo Ấn Độ sau hai bách kỷ kể từ ngày đức Phật nhập diệt. Sự phát triển của các bộ phái này trở lại làm tiền đề cho sự trỗi dậy của Phật giáo Đại thừa với những tư tưởng chủ đạo như Trung luận, Nhận thức luận, Như lai tạng và Chân ngôn, tạo nên nguồn cảm hứng và động lực mới để Phật giáo đủ sức vươn ra thế giới bên ngoài Vương quốc Ấn Độ. 
Tất cả những bộ phái và học phái ấy, dẫu có những quan điểm khác biệt nhau trong cách giải thích những giáo lý cơ bản Phật đã dạy, tùy theo sự chi phối của các điều kiện như trình độ, hoàn cảnh lịch sử, xã hội, và địa lý hoạt động của mỗi bộ phái, nhưng tất cả đều cùng thống nhất một con đường, một đạo, một đạo tích, đó là lý Duyên khởi và Giải thoát, mà Đại sư Ấn Thuận gọi là Pháp trụ và Niết bàn. Đại sư là một tác gia lớn của Phật giáo Đài Loan hiện đại. Qua công trình nghiên cứu khoa học và công phu của mình, Đại sư đã trình bày cặn kẽ lịch sử tư tưởng Phật giáo Ấn Độ đã hình thành, phát triển đa dạng như thế nào trên cái sườn Pháp trụ và Niết bàn mà Phật đã chứng và đã giáo hóa. Giữa muôn vàn sai biệt của khu rừng Phật học rộng lớn. Đại sư đã hệ thông và nêu rõ cho độc giả thấy diễn tiến tư tưởng Duyên khởi đến Pháp tánh rồi Phật tánh luận, đồng thời qua đó, cũng chỉ cho thấy điểm đồng quy của mọi bộ phái. Đó là điểm đặc sắc trong công trình nghiên cứu này của Ngài.
Nhằm góp phần phục vụ cho việc học tập và nghiên cứu lịch sử tư tưởng Phật giáo Ấn Độ, đồng thời thể hiện hoài bão hoằng Pháp lợi sanh, Đại đức Thích Nhuận Thịnh đã chuyển dịch tác phẩm này của Đại sư Ấn Thuận sang Việt Ngữ, kèm theo các phụ chú công phu, để giới thiệu với độc giả Việt Nam. Chúng tôi xin tùy hỷ tán dương và cầu chúc Đại đức thành tựu ý nguyện tốt đẹp của mình.
Nguyên Giác (Già Lam Quảng Hương, Đầu xuân Canh Tý, PL. 2564)
Trích “Chương I – Sự Hưng Khởi Của Phật Pháp Và Thời Đại Văn Minh Của Ấn Độ”
Đức Thích-ca-mâu-ni (Sakyamuni, dưới đây gọi tắt là đức Thích tôn) đản sanh ở Ấn Độ, tuyên dương Phật pháp, đã khơi mở, hiển bày ánh sáng của chân lý và tự do cho nhân loại. Sự xuất hiện ở nhân gian của đức Thích tôn có tính thời tiết nhân duyên của Ngài, cũng chính là hoàn cảnh văn hóa đương thời ở Ấn Độ có khả năng và nhu cầu phát sanh Phật giáo. Nói đến nền văn minh Ấn Độ, thì khai phá là người A-lợi-an (Arya) di cư từ phương Tây đến. Sự phát triển của lịch sử nền văn minh Ấn Độ cổ, thông thường được chia thành ba thời kỳ: thời kỳ sinh sống ở vùng Ngũ hà, thời kỳ di cư đến lưu vực sông Hằng, thời kỳ khai thác phương Nam. Thời kỳ di cư đến sông Hằng (Ganga) bắt đầu khoảng thế kỷ X B.C., là thời kỳ xán lạn của nền văn minh Ấn Độ; thời kỳ này lại có thể chia thành ba giai đoạn để trình bày. - Người A-lợi-an di cư xuống phía Nam, lấy khu vực Câu-la (Kuruksetra) làm trung tâm, đến vùng uốn cong của sông Hằng, đây là nơi được Bà-la-môn giáo (Brah-manism) gọi là “trung tâm đất nước”. Về phương diện Giáo điển, đầu tiên là biên tập những bài ca tán tụng được truyền lại từ thời cổ đại (có phần được sáng tác mới) thành 3 bộ Vệ-đà – Lê-câu Vệ-đà (Rgveda), Sa-ma Vệ-đà (Samaveda), Dạ-nhu Vệ-đà (Yajurveda). Vệ-đà (Veda) là gồm những bài ca tán tụng dùng để tế tự, đối với những quy định về nghi thức tế tự, ý nghĩa của các nghi thức cúng tế và lời bài ca tán tụng được ghi lại càng tường tận hơn thì trở thành Phạm thư (Brahmana). Về giáo nghĩa, thời bấy giờ đã xác lập ba cương lĩnh: Vệ-đà do Thiên khải, Bà-la-môn là (giai cấp) cao nhất, hình thức tế tự là vạn năng. Vệ-đà do Thiên khải là: những bài ca tán tụng của tôn giáo do truyền lại từ cổ đại, được xem như là những lời khải thị của Thần linh, làm bằng chứng có sức thẩm quyền nhất của Thần giáo.
Bà-la-môn là giai cấp cao nhất: theo khải thị của Thần linh, chia loài người thành 4 giai cấp: giai cấp Bà-la-môn (Brahmana) (gồm những người lo việc) tế tự, giai cấp Sát-đế-lợi (Ksetriya) (gồm những người) võ sĩ (nắm vương quyền), giai cấp Vệ-xá (Vaisya) (gồm những người) tự do buôn bán, sản xuất – đều là người A-lợi-an, hưởng quyền tái sanh của tôn giáo. Dân bản địa không phải là người A-lợi-an trở thành giai cấp Thủ-đà-la (Sudra) bị nô dịch, chết rồi là hết, gọi là chủng tộc (chỉ) sống trong một đời. Sự phân chia giai cấp chặt chẽ ấy xuất phát từ ý của thần linh; xem Bà-la-môn là tế sư, địa vị cao cấp nhất. Hình thức tế tự là vạn năng: quan hệ giữa thần và người là nhờ vào tế tự, tế tự là mục đích đệ nhất của tôn giáo. Tiến thêm nữa, cho rằng: thiên thần, loài người, thế giới, tất cả đều nhờ cúng tế mà hành động, nhờ cúng tế mà tồn tại; thiên thần cũng bị giới hạn không thể không nhận sư tế tự. Ngoài ra, những chú pháp dùng để tiêu tai nạn, khai vận may, nguyền rủa, hàng phục do A-thát-bà-a-kì-la (Atharvangirasa) cổ đại truyền lại, trở thành tín ngưỡng cấp thấp của nhân dân thông thường, về sau được biên tập thành A-bà-bà Vệ-đà. 
- Người A-lợi-an di cư về hướng Đông, trong lưu vực sông Hằng đã xuất hiện vương triều Tỳ-đề-ha (Videha), thủ phủ Di-hi-la (Mithila), nay là bờ phía Bắc sông Hằng, Tỳ-đề-ha không phải là người A-lợi-an thuần chủng, truyền thuyết nói đó là vương triều có truyền thống làm vua từ lâu đời. Bấy giờ, hàng Bà-la-môn ở trung tâm Câu-la chú trọng về hình thức tế tự, nỗ lực khiến cho nó thông tục hóa; nhưng ở vùng trung lưu sông Hằng chịu sự nhào nặn của văn hóa tôn giáo người A-lợi-an nên phát triển thành nền văn hóa mới, chính là Cổ Áo nghĩa thư (Upanisad). Bấy giờ, những người khổ hành và ẩn dật dần dần tăng nhiều thêm. Những người ẩn dật không tế tự theo hình thức nữa, không bị lao tâm vì chuyện cơm ăn áo mặc nữa nên chuyên tâm vào thiền định và tư duy. Loại học phong này dường như tiêu cực, nhưng ý nghĩa tích cực là không chỉ thâm nhập vào triết lý mà còn không bị trói buộc bởi tế tự nữa. Như vua A-xà-thế (Ajatasatru) của nước Ca-thi (Kasi) đã được học giả Vệ-đà là Bạc-lê-cách (Balaki) dạy về Phạm (Brahman), triều đình vua Tỳ-đề-ha lấy tiên Tự-bì-y (Yajnavalkya) làm trung tâm, triệu tập mở đại hội thảo luận triết lý. Sự hưng thịnh mạnh mẽ của Áo nghĩa thư là do vương gia lãnh đạo tư tưởng, “Bà-la-môn chí thượng” không thể không quay về địa vị thọ giáo. Áo nghĩa thư xem trọng trí thức về chân ngã (atman), tế tự đã không còn là vạn năng nữa, cho nên nói: “người thực hành tế tự và khổ hành sẽ đi vào thiên giới, luân hồi ở trong đó, chỉ có người trú trong Phạm mới đạt được sự bất tử”. Vệ-đà chẳng qua chũng chỉ là hạng mục học vấn, không có liên quan gì đến chân ngã, Áo nghĩa thư có hai sự thiết lập trọng yếu:
- Phạm ngã luận của chân tâm
- Thuyết luân hồi của nghiệp cảm

Từ những bài tán ca về sáng tạo của Lê-câu Vệ-đà trở về sau, thần thoại sáng tạo có khuynh hướng nhất nguyên đã trải qua sự lý luận hóa rồi trở thành bản nguyên của vũ trụ, là thật tại to lớn mang tính thần bí. Trong Áo nghĩa thư gọi nó là Phạm; nếu như nó hiện rõ thành nhân cách thần thì gọi là Phạm thiên (Brahman). Bản chất của sanh mạng hữu tình được gọi là ngã. Trong lịch trình sanh tử, nhân loại dường như là mê vọng, hư huyễn, nhưng tìm đến sâu xa đương thể của tự ngã thì cuối cùng vẫn đồng nhất với Phạm chân thường và vốn trong sáng ấy, cho nên nói: “cái ngã ấy chính là Phạm”. Tự ngã là chủ quan thuần túy siêu kinh nghiệm, cho nên “người nhận thức không thể nhận thức được”, đây là “sự chủ quan chẳng phải một, chẳng phải hai, tức là Phạm giới, tức là nơi quay về tối cao, là niềm vui vi diệu tối thượng”. Về thuyết nghiệp cảm luân hồi (samsara), là trong dòng nối tiếp của sanh tử, theo những hành vi – nghiệp (karman) của chính mình tạo thành thân phận cho chính mình ở tương lai, như nói: “con người nhờ dục mà hình thành, do dục nên có ý hướng, do có ý hướng nên có nghiệp, y vào nghiệp nên có quả” báo. Thuyết nghiệp lực của Áo nghĩa thư đã kết hợp với chân ngã luận. Ngã bị hạn chế, trói buộc bởi hành vi của tự thân nên từ đời này rồi chuyển đến đời khác. Đối chiếu với sự chân thật, thanh tịnh, vi diệu, an lạc của tự ngã, cảm nhận được thêm bội phần sự mê vọng và bi ai của đời người, do đó thúc đẩy sự hưng thịnh của tư tưởng giải thoát về sau. Chân ngã luận là sự phát triển của văn hóa Vệ-đà nhưng thuyết nghiệp lực lại là tiếng nói mới của thời đại. Có người hỏi nơi trở về sau khi chết, tiên Tự-bì-y nói: “Điều này không thể nói nơi đông người, chỉ có giữa hai người mới có thể truyền”, điều được nêu đó chính là nghiệp. Lúc bấy giờ, nghiệp là thuyết mới nên không công khai truyền trao, cho nên vua Kỳ-bà-lợi (Pravahana-jaivali) nói với Bà-la-môn A-nhi-ni (Uddalohana-aruni) rằng: “Giáo thuyết này (luân hồi), cho đến hôm nay, Bà-la-môn chưa từng biết nó”. Tư tưởng của phương Đông này, kết hợp nghiệp lực, với chân ngã, rồi sau tùy theo nghiệp trong luân hồi, người giai cấp Thủ-đà-la thì như vậy, A-lợi-an học tập và tụng đọc Vệ-đà cũng vẫn như vậy. Ngược lại, nếu dựa vào trí để ngộ chân ngã thì Thủ-đà-la cũng có thể đi vào Phạm giới bất tử. Tinh thần của Áo nghĩa thư, rõ ràng còn có ý nghĩa cách tân Bà-la-môn giáo. Đây là khúc dạo đầu khi văn hóa người A-lợi-an đến được phương Đông, đã triển khai cách tân tôn giáo một cách ôn hòa… MỤC LỤC:
Lời Giới Thiệu
Mục Lục
Bảng Viết Tắt
Lời Tựa
Phàm Lệ
Chương I: Phật Pháp - Sự Hưng Khởi Của Phật Pháp Và Thời Đại Văn Minh Của Ấn Độ
- Lược Sử Của Đức Thích Tôn
- Trung Đạo Chánh Pháp
Chương II: Sự Kết Tập Thánh Điển Và Phân Chia Bộ Phái
- Tháp Xá Lợi Và Sự Kết Tập
- Sự Phân Chia Bộ Phái Và Luận Thư
- Bàn Thêm Về Tư Tưởng Bộ Phái
Chương III: Phật Pháp Đại Thừa Sơ Kỳ
- Sự Lưu Bố Của Kinh Đại Thừa Sơ Kỳ
- Đại Thừa Thuộc Trí Sâu, Hành Lớn
- Đại Thừa Thuộc Phương Tiện Dễ Hành
Chương IV: Trung Quán Đại Thừa – Tánh Không Duy Danh Luận
- Long Thọ Và Luận Thư Của Ngài
- Tư Tưởng Của Long Thọ
- Bách Luận Của Đề Bà
Chương V: Phật Pháp Đại Thừa Hậu Kỳ
- Kinh Đại Thừa Hậu Kỳ
- Đặc Sắc Của Tư Tưởng Như Lai Tạng Ngã
Chương VI: Học Phái Thanh Văn Trong Thời Đại Đại Thừa
- Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ
- Thí Dụ, Phân Biệt Thuyết, Chánh Lượng, Đại Chúng Bộ
- Học Phái Tổng Hợp Sau Khi Kinh Bộ Hưng Khởi
Chương VII: Du – Già Đại Thừa – Hư Vọng Duy Thức Luận
- Hành Giả Du – Già Và Luận Thư
- Kiến Giải Của Hành Giả Du – Già Về Pháp Chung Của Đại Thừa
- Những Quan Điểm Cốt Lõi Của Phái Du – Già Hành
Chương VIII: Như Lai Tạng Và Chân Thường Duy Tâm Luận
- Thuyết Phật Tánh Của Học Giả Bát Nhã
- Chân Thường Duy Tâm Luận Do Kết Hợp Với Duy Thức Mà Thành
- Như Lai Tạng Và Như Lai Luận
Chương IX: Sự Đối Kháng, Hòa Hợp Của Du – Già Và Trung Quán
- Du – Già Và Luận Sư Trung Quán
- Sự Phát Triển Của Du – Già Học
- Sự Phục Hưng Của Trung Quán Học
- Đối Kháng Và Hợp Lưu
Chương X: Phật Pháp Đại Thừa Bí Mật
- Thời Gian, Địa Điểm Và Nhân Duyên Của Đại Thừa Bí Mật
- Như Lai (Tạng) Bổn Cụ Và Niệm Phật Thành Phật
- Kim Cang Thừa Và Thiên Hành