Mục đích của Phật giáo là làm lợi ích cho nhân sinh, tưới tẩm suối nguồn tâm thức cho mọi người có chí hướng vọng, không phân biệt sang hèn cao thấp. Nhưng để đưa được nguồn mạch tư tưởng này đến với tất cả mọi người thì ắt phải có sự dấn thân không nề hà mệt mỏi. Có thể nói Đại sư Tinh Vân là một trong những nhà Phật học lỗi lạc trên thế giới nói chung và Đài Loan nói riêng. Đại sư đã đưa Phật pháp đến với khắp năm châu, bằng phương thức bình dị, hài hòa để ai nấy đều có thể tìm lại con người “nguyên chất” của mình. Đại sư đã xây dựng nên hệ thống Phật giáo nhân gian được đông đảo quần chúng nhiều nước trên thế giới hưởng ứng mà đặc biệt là Phật giáo Đài Loan. Để mọi người có thể hiểu rõ về tư tưởng này, chúng tôi xin giới thiệu bộ Nhân gian Phật giáo thư hệ gồm 8 quyển: Phật giáo và nhân sinh, Phật pháp và Nghĩa lý, Phật giáo và Xã hội, Thiền học và Tịnh Độ, Sinh tử và Giải thoát, Tôn giáo và Thể nghiệm, Học Phật và Cầu Pháp, Nhân gian và Thực tiễn. Đây là bộ tập đại thành những nội dung diễn thuyết của Đại sư hơn ba mươi năm trước, nguyên ủy tác phẩm này là Tinh Vân Đại Sư Diễn Giảng Tập, tổng cộng gồm 4 tập, từng được xem là tài liệu phải đọc để hiểu về Phật giáo và nghiên cứu Phật học, ngoài ra cũng có không ít người xuất gia hay đệ tử tại gia dùng tập diễn giảng làm tài liệu để giảng kinh thuyết pháp. Đại sư cảm thấy rằng bộ diễn giảng này ra đời cách đây đã khá lâu, tuy chân lý Phật pháp không hề thay đổi, cái Chân Thiện Mỹ vẫn bất biến theo dòng đời nhưng do hoàn cảnh biến thiên, con người và sự vật cũng đã đổi thay, nên Đại sư đã chỉnh sửa thêm bớt cho phù hợp với tình hình hiện tại, đồng thời dựa theo tính chất nội dung mà phân thành 8 quyển và đặt lại nhan đề là Nhân Gian Phật Giáo Thư Hệ.
Tám quyển sách này là nội dung cơ bản của Phật giáo nhân gian, trình bày rất dễ hiểu bằng ngôn ngữ hiện đại, đan xen với tình huống thực tế cuộc sống. Về mặt nội dung thì bộ sách không liên đới với nhau, độc giả có thể đọc bất kỳ quyển nào mình thích. Hy vọng mỗi quyển sách sẽ là một “lối về” giúp độc giả hiểu rõ hơn về bản chất cuộc sống, nhìn thấu cảnh giả huyễn để vượt qua lắm nỗi nhập nhằng, rối ren do thời đại khoa học kỹ thuật phát triển vượt bậc và sự xuống cấp trầm trọng của nền đạo đức hiện nay mang đến. Qua đó chúng ta có thể giảm thiểu về “lượng” và gia tăng về “chất” nhằm thăng hoa tinh thần đến cung bậc cao hơn, sống một cuộc đời tiêu dao tự tại! Trích “Ý Nghĩa Quy Y Tam Bảo – Học Phật Và Cầu Pháp”
Quy y nghĩa là quay về nương tựa, nhưng cũng bao hàm ý nghĩa cứu giúp, cứu hộ. Tam quy y là chỉ cho quay về nương tựa ba ngôi báu Phật, Pháp, Tăng. Nương vào oai lực công đức gia trì bảo hộ của Tam bảo thì có thể dứt trừ được luân hồi sinh tử vô biên, được che chở cứu giúp, hoàn toàn xa lìa sợ hãi, giải thoát tất cả buồn lo khỗ não. Người ở đời nhờ tiền của vàng bạc mà có được cuộc sống vật chất đầy đủ sung sướng. Còn như nương vào ba ngôi báu Phật, Pháp, Tăng thì sẽ được sự yên ổn, tinh thần thăng hoa.
Sách Con Đường Thành Phật có ghi: “Chúng sinh từ quá khứ đến hiện tại, từ hiện tại đến vị lai, trong quá trình thời gian thay đổi từ đời này sang đời khác, lưu chuyển lên xuống trong bể khổ, cần phải nương thuyền Tam bảo mới có thể đến được bờ bên kia. Nhưng chúng sinh ngu si, không biết quy y, nếu có người biết tìm cầu quy y thì lại gặp phải tà sư ngoại đạo. Thậm chí các tà sư ấy còn ham mê tiền tài, địa vị quyền lực, quyến thuộc, sinh mạng” … Ở thế gian, không biết tài vật ấy là của cải của năm nhà, lúc gặp lửa lớn, nước lớn, giặc cướp, vua quan tham ác hoặc con cái bất hiếu thì tài sản ấy liền tiêu tan, trong chớp mắt trở thành trắng tay. Quyền lực địa vị cao sang rốt cuộc cũng không còn. Như kinh Đỉnh Sinh vương ghi: “Vua Chuyển luân Đỉnh Sinh thống nhiếp bốn châu thiên hạ, sinh lên cõi trời Đao Lợi, cùng Đế Thích Thiên cai quản thiên cung, nhưng sau cùng không tránh khỏi đọa lạc vào nhân gian, rồi chết trong buồn khổ”. Quyến thuộc thương yêu nhau, khi vô thường đến cũng phải chia lìa. Hơn nữa, con người có sinh nhất định có tử, cho nên không thể nương vào sinh mạng. Còn đất nước, xã hội cũng có lúc thịnh trị, lúc loạn lạc, lưu chuyển không dừng. Do đó, tất cả những thứ ấy không phải là chỗ để chúng ta nương tựa cứu cánh. Cho nên có câu: Tất cả các chỗ nương tựa, Tam Bảo là nơi an toàn nhất.
Luận A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa, quyển 34 nói: “Mọi người bị sợ hãi, bức bách, phần nhiều nương tựa thần núi, thần vườn, thầy cây, thần Cô Thọ và tháp Chế Đa … Những nơi quy y này không thù thắng, nơi nương tựa này không tôn nghiêm, không thể giải thoát các khổ não. Các vị quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, ở trong Tứ thánh đế thường dùng trí tuệ quan sát, biết khổ, biết khổ tập, biết con đường xa lìa khổ, biết Bát chánh đạo đưa đến Niết bàn an ổn. Quy y này rất thù thắng, rất tôn nghiêm. Nhất định nhờ vào sự quy y này mà được giải thoát các khổ”. Quy y là do lòng tin tha thiết, thấu hiểu Tam bảo Phật, Pháp, Tăng đúng là nơi quy y chân chính, có thể nhờ đó mà có được các thứ công đức; đã biết Tam Bảo có các công đức như thế mới phát nguyện làm đệ tử Phật, tin hiểu, nhận lãnh và thực hành. Cầu nguyện uy đức gia trì nhiếp thọ của Tam bảo, đem thân tâm quay về nương tựa Tam bảo, từ đây sẽ không còn tin và phụng thờ thiên ma ngoại đạo.
Đại Thừa Nghĩa Chương, quyển 10 nói: “Quy thuận phủ phục, nên gọi là quy y. Tướng của quy thuận giống như con trở về bên cha; nghĩa phủ phục giống như dân nương vua, giống như người yếu đuối sợ sệt nương vào người dũng cảm gan dạ”. Thông thường mà nói, quy y là tín ngưỡng. Hy vọng được sức trợ giúp bên ngoài, được cứu giúp bằng tha lực, đây là tôn giáo tha lực. Quy y trong Phật giáo vốn có nghĩa này, nhưng ngoài nghĩa này ra, lại còn có những điểm không giống với các tôn giáo khác. Bởi vì, ý nghĩa sâu xa và mục đích cuối cùng của quy y vẫn là quay về nương tựa tự tâm tự tính của chính mình. Như lúc sắp nhập Niết Bàn, Phật khuyên dạy đệ tử ý nghĩa chân chính của quy y là “nương vào chính mình, nương vào pháp, không nương vào thứ gì khác”. Điều đó nói rõ đệ tử Phật cần nương tựa vào sức lực của mình, nương vào chánh pháp để tu học, nương vào Phật tính của chính mình, tự mình có khả năng thành Phật. Vì đương thể của thân tâm mình chính là chánh pháp Niết bàn. Nếu có đầy đủ nhận thức như thế mới đúng là ý nghĩa chân chính của quy y. Ý Nghĩa Của Tam Bảo:
Tam bảo là Phật, Pháp, Tăng. Vì sao gọi Phật, Pháp, Tăng là ba ngôi báu? Vì của cải ở thế gian chỉ giải quyết nhu cầu sinh hoạt trong cuộc sống của chúng ta, còn của cải xuất thế gian là Phật, Pháp, Tăng có khả năng nuôi lớn, thành tựu pháp thân tuệ mạng của chúng ta. Phật là người tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, thành tựu vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nên gọi là Phật. Ngoài ra, Phật còn chỉ đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni trong Phật giáo, hoặc chỉ cho tất cả chư Phật ba đời trong mười phương. Thật ra, nói cho cùng thì Phật là chỉ cho tự thân của mỗi người chúng ta, là Phật tính mà người người đều có. Quy y Phật chính là quy y chân tâm Phật tính của chúng ta, giống như ngọn đèn chói sáng trong tâm, cũng giống như xây dựng một nhà máy phát điện.
Pháp là quỹ trì, gồm có bốn Pháp bảo đó là giáo pháp, lý pháp, hành pháp, quả pháp, có thể thành tựu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, như nghĩa lý trong tam tạng kinh điển, nên gọi là Pháp. Ngoài nghĩa này ra, Pháp còn chỉ cho Tứ thánh đế, Thập nhỉ nhân duyên, Bát chánh đạo, Tam pháp ấn hoặc chỉ cho mười hai bộ (loại) kinh Đại Thừa, Tiểu Thừa. Pháp là chân lý, là pháp tính tự giác của mỗi con người, cũng chính là pháp thân tuệ mạng không hoại diệt. Quy y Pháp chẳng khác nào vào biển Pháp mênh mông trong mỗi sinh mạng của chúng ta, giống như tự mình xây dựng một công ty cung cấp nước, để tẩy rửa tội nghiệp, tiêu trừ phiền não nhiễu loạn trong mỗi chúng ta, vì vậy dòng nước Pháp luôn chảy mãi.
Tăng là nghĩa hòa hợp. Hòa hợp có hai nghĩa: Sự hòa hợp, lý hòa hợp. Kiến hòa đồng giải (thống nhất tư tưởng)
Giới hòa đồng tu (pháp chế bình đẳng)
Lợi hòa đồng quân (kinh tế chia đều)
Ý hòa đồng duyệt (tâm ý hòa nhã)
Khẩu hòa vô tránh (lời nói vui vẻ)
Thân hòa đồng trụ (sống chung an lạc)
- Lý hòa hợp là có thể chứng lý vô vi trạch diệt.
Do lý sự hòa hợp, trên hoằng dương Phật đạo, dưới hóa độ chúng sinh, tự độ và độ tha nên gọi là Tăng. Ngoài ra, Tăng còn chỉ cho một nghìn hai trăm năm mươi vị Tỳ kheo A la hán theo đức Phật xuất gia tu học thời Phật còn tại thế. Hoặc chỉ cho tăng chúng hiện tiền và tăng chúng đại Bồ tát. Tăng mang nghĩa là ruộng phước. Cũng giống như có đất đai ruộng vườn, sau khi khai phá mảnh đất tâm rồi, ta có thể cày bừa trồng trọt. Đó chính là công đức sâu dày của mỗi chúng ta không hề thay đổi. Luận thành thật, quyển 1 nói: “Phật dùng nhất thiết chủng trí, biết tất cả pháp tự tướng sai biệt, lìa tất cả pháp bất thiện, gom tất cả pháp thiện, thường làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật. Pháp là chân lý đức Phật giảng nói để giáo hóa chúng sinh. Tăng là những người xuất gia thực hành theo chân lý Phật Pháp này”. Nói một cách đơn giản, Tam bảo là ba chiếc thuyền có năng lực giúp chúng ta đắc độ (vượt qua bờ kia): - Phật là thầy dẫn đường;
- Pháp là phương pháp tu hành;
- Tăng là người chỉ đường.
Luận Bảo vương, quyển 2 có nêu sáu nghĩa nói rõ ý nghĩa Tam Bảo:
- Hy hữu (hiếm có): Tam bảo Phật, Pháp, Tăng tích lũy trăm nghìn vạn kiếp, giống như trân bảo ở thế gian rất khó gặp, chúng sinh phước mỏng không thể gặp; giống như trân bảo ở thế gian thì nhà nghèo không thể có.
- Ly cấu: Tam bảo Phật, Pháp, Tăng các lậu đã hết, không còn cấu nhiễm, cũng như trân bảo thế gian, trong ngoài đều sáng sạch, không chút tỳ vết.
- Thế lực: Tam bảo Phật, Pháp, Tăng đủ sáu phép thần thông, cứu giúp chúng sinh xa lìa các đường ác, giống như trân bảo ở thế gian, trừ kham, khử độc, có thế lực rất lớn.
- Trang nghiêm: Tam bảo Phật, Pháp, Tăng lấy chánh pháp trang nghiêm người tu hành, làm cho thân tâm thanh tịnh, giống như trân bảo thế gian trang sức thân thể, làm cho con người càng thêm xinh đẹp.
- Tối thắng: Tam bảo Phật, Pháp, Tăng là thù thắng nhất trong thế gian, giống như trân bảo ở thế gian là vật trân quý nhất.
- Không thay đổi: Tam bảo Phật, Pháp, Tăng không bị pháp thế gian làm thay đổi, giống như vàng thật ở thế gian, dù nun luyện dùi mài cũng không dễ thay đổi.
Từ sáu nghĩa nói trên, chúng ta có thể biết Phật như người thầy thuốc giỏi, có năng lực dùng pháp cứu vớt chúng sinh. Pháp như vị thuốc hay, có công dụng trị lành bệnh khổ. Tăng như người khám bệnh, có thể thay Phật đoán bệnh cho thuốc (chỉ dạy). Lòng từ bi của Tăng có thể hoằng dương độ trì Pháp của Phật. Do đó, Tam bảo là thuyền từ trong biển khổ, là ngọn đèn sáng trong đêm tối, là thầy thuốc giỏi của người bệnh. Tam bảo có năng lực độ người cứu đời, có công dụng trị đời dạy dân, do đó được gọi là Tam bảo… Đôi Nét Về Đại Sư Tinh Vân
Đại sư Tinh Vân sinh ngày 22-7 năm Đinh Mão (1927) tại Giang Tô, tỉnh Giang Tô, Trung Quốc. Là con thứ ba trong một gia đình có bốn anh chị em, năm lên 5 tuổi ngài bắt đầu ăn chay, đến năm 12 tuổi, ngài đến xin xuất gia với Hòa thượng Chí Khai Thượng Nhân chùa Đại Giác ở Nghi Hưng. Vốn tư chất thông minh lại thâm tín Phật pháp chẳng bao lâu sau ngài tốt nghiệp Học viện Phật giáo Tiêu Sơn. Đến năm 1967, Phật Quang Sơn ra đời dưới sự lãnh đạo của ngài. Từ đó đến nay Phật Quang Sơn đã ngày một phát triển về mọi mặt như văn hóa, giáo dục, từ thiện … Có thể nói, đó chính là một minh chứng hùng hồn nhất của diện mạo Phật giáo trong thời đại hiện nay.
Với hoài bão lớn lao, Đại sư đã ngày đêm không mệt mỏi đẩy mạnh sự nghiệp hoằng pháp, văn hóa và giáo dục Phật giáo, ngài thành lập Trung tâm phục vụ Văn Hóa Phật giáo, xây dựng học viện Phật giáo, sáng lập các nhà trưng bày mỹ thuật, thư viện, nhà xuất bản, nhà sách, các trường học, Học viện Tùng Lâm Phật giáo, v.v… Bên cạnh đó, ngài đã chỉ đạo biên soạn Phật Quang Đại tạng kinh, Phật Quang đại từ điển và cho xuất bản Trung Quốc Phật giáo bạch thoại kinh điển bảo tạng, v.v… với tinh thần không ngại gian khó, ngài đã thuyết giảng khắp nơi từ Đài Loan, đến các nước Đông Nam Á, qua Châu Âu, Châu Mỹ, từ chùa đến trường học, từ tổ chức chính phủ đến tổ chức tư nhân, từ nhà tù đến trung tâm quân sự … Ngài đã và đang gắn kết hàng triệu trái tim của mọi giai tầng trong xã hội lại với nhau thông qua lời dạy của đức Phật và khẳng định được mình trong việc mang đến lợi ích cho Phật giáo thế giới nói chung và Phật giáo Đài Loan nói riêng. Điển hình là Đại sư đã khai sáng bốn trường Đại học lớn như: Đại học Tây Lai ở Los Angeles (Mỹ) Phật Quang ở Đài Loan Trung Quốc, Nam Hoa và Nam Thiên ở Sydney (Úc). Với sự khéo léo và tinh tế của mình, ngài đã dung hòa văn hóa xưa và nay, Đông và Tây, đặt ra hệ thống điều lệ, tạo nên một luồng gió mới mang phong cách Phật giáo nhân gian. Nét đẹp từ hạnh nguyện của ngài vẫn mãi dịu dàng và lung linh tỏa sáng, ngài đi đến các nơi trên khắp thế giới: Bắc Mỹ, Ấn Độ, Úc và các nước phương Tây truyền thụ Tam đàn đại giới quốc tế với mục đích ươm mầm đạo pháp. Danh dự và đạo đức của ngài được khẳng định trên toàn thế giới, ngài nhận được những học vị tiến sĩ danh dự từ các trường đại học như: Đại học Đông Phương, Đại học Whittier (Mỹ), Đại học Chulalongkom và Magude (Thái Lan), Đại học Phụ Nhân (Đài Loan – Trung Quốc), v.v… Ngoài ra, ngài còn nhận được các giải thưởng như: “Giải thưởng an định thân tâm” của Hãng truyền hình vệ tinh Phoenix (Phượng Hoàng) Hồng Kông, “giải thưởng thành tựu trọn đời” của Hiệp hội nhà văn người Hoa trên thế giới, “giải thưởng thành tựu xuất sắc” của Tổng thống George W.Bush, v.v…
Có thể nói, cuộc đời và sự nghiệp, uy tín và sự lãnh đạo tài hoa của Đại sư đã vang xa khắp năm châu. Và, những tác phẩm của ngài như: Thích Ca Mâu Ni Phật truyện, Tinh Vân đại sư giảng diễn tập, Phật giáo tùng thư, Phật Quang giáo khoa thư, Giữa Mê và Ngộ, v.v… được phổ biến rộng rãi. Quả thật, ngài đã rất vĩ đại khi mang tinh hoa Phật giáo đến với cuộc đời bằng chính công trình xây dựng và hoằng dương chánh pháp, khẳng định vị thế vô cùng quan trọng của Phật giáo trên toàn thế giới, ngài đã ban tặng cho thế hệ hôm nay và mai sau trí tuệ, tình yêu thương, sự hy sinh, lòng nhiệt huyết, hoài bão làm đẹp cuộc đời, đem lại nguồn an lạc thiết thực cho mọi người trong cuộc sống rối ren đầy hệ lụy này!
Mục Lục:
Ý Nghĩa Quy Y Tam Bảo
Thái Độ Cầu Pháp
Bốn Nơi Nương Tựa Của Việc Học Pháp
Tiến Nhập Vào Phật Pháp Như Thế Nào
Bắt Đầu Học Pháp Từ Đâu?
Vì Sao?
Chúng Ta Cầu Pháp Cần Có Sự Hiểu Biết
Một Quan Niệm, Bốn Phương Pháp
Ai Trước Ai Sau?
Trình Tự Học Phật
Phương Pháp Giáo Dục Của Đức Phật
Phương Pháp Giáo Dục Trong Chùa Chiền Tùng Lâm
Phương Pháp Giáo Dục Đặc Thù
Mười Số Phật Pháp
Ngoài Phật Pháp
Đôi Nét Về Đại Sư Tinh Vân